Tuesday, April 27, 2021

Từ câu chuyện của đạo diễn Chloe Zhao: Quê hương không phải chốn nương thân

 Câu chuyện của của nữ đạo diễn Chloe Zhao (Triệu Đình) bị Bắc Kinh chỉ đạo không cho hệ thống truyền thông toàn Trung Quốc loan tin về việc bà được vinh danh tại giải Oscar lần thứ 93, không chỉ là việc kiểm duyệt nhân thân, mà còn lại mở ra nhiều cánh cửa hậu trường chính trị.



Cuốn phim Nomadland của bà Chloe Zhao giành giải Đạo diễn giỏi nhất, Phim hay nhất, Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Không phải chuyện kinh động từ bộ phim có một ngân sách thấp chỉ 5 triệu USD, mà vấn đề là lần đầu tiên, một phụ nữ Châu Á nhận giải, và người gốc Trung Quốc thứ hai, sau đạo diễn Ang Lee (Lý An). Gọi là gốc Trung Quốc, vì tuy sinh ra ở Bắc Kinh, nhưng bà Chloe Zhao sống ở Mỹ và muốn coi nơi này là một quê hương của mình.

Theo tờ The Wall Street Journal, một phóng viên giấu tên ở Trung Quốc cho biết, mọi phương tiện truyền thông nhà nước đều nhận được tin nhắn, nhắc nhở là không được nói gì về giải thưởng Oscar của bà Chloe Zhao, kèm theo giải thích ngắn là do có một số “dư luận trước đó”.

Cái loa của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tờ Hoàn Cầu thời báo là nơi duy nhất được lệnh viết bài về phim của bà Chloe Zhao, nhưng chê và nói Nomadland “đặc trưng của người Mỹ và khác xa với cuộc sống thực của người Trung Quốc”. Cũng trong bài báo ấy, tờ Hoàn Cầu thời báo còn dạy dỗ bà Chloe Zhao rằng “Chúng tôi hy vọng bà ta có thể ngày càng trưởng thành hơn. Trong thời đại mà cuộc đối đầu Trung - Mỹ ngày càng gay gắt, cô ấy có thể đóng vai trò trung gian trong hai xã hội và tránh trở thành điểm tạo ra những mâu thuẩn. Cô ấy không thể thoát khỏi cái nguồn gốc của mình, và cô ấy nên tích cực sử dụng nó”.


Bộ phim Nomadland kể một câu chuyện tĩnh lặng và dịu dàng về sự sụp đổ kinh tế của một thị trấn công ty ở vùng nông thôn Nevada, từ đó bà Fern (Frances McDormand) quyết định lái chiếc xe tải của mình và lên đường khám phá cuộc sống bên ngoài xã hội, thảnh thơi như một người du mục thời hiện đại. Bộ phim chứa đầy sự cô đơn của một người đứng trước cánh cửa tuổi xuân khép lại, cô đơn và tìm kiếm những cảm nhận nội tâm. Phim còn có cảnh tuyệt đẹp và sâu thẳm của miền Tây nước Mỹ.

Phim chỉ vậy thôi. Chẳng chính trị chính em gì, nhưng Bắc Kinh không chỉ thất vọng vì phim bởi một người Trung Quốc, mà chẳng nói gì về Trung Quốc để họ có thể dựa dẫm vinh quang – kiểu rất thường thấy ở các nhà nước độc tài và cộng sản: Luôn xua người tài khác quan điểm chính trị ra đi, nhưng khi họ thành đạt thì luôn cố vơ vào như thân thiết lắm. Điều tức giận của Bắc Kinh, mà theo đài ABC của Úc tiết lộ, là bà Chloe Zhao từng có quan điểm ủng hộ các cuộc biểu tình đòi dân chủ ở Hong Kong.

Chính vì vậy, nên lúc này không phải là lần đầu tiên Nomadland bị truyền thông Trung Quốc tìm cách xóa đi trên tin tức. Tháng trước, hãng Associated Press cũng ghi nhận thấy rằng các bài đăng trên mạng xã hội và các bài báo công khai khác về bộ phim đã bị các cơ quan kiểm duyệt của Trung Quốc xóa bỏ. Lý do bắt nguồn từ những bình luận của bà Chloe Zhao trên các phương tiện truyền thông phương Tây trước đây, bày tỏ quan điểm chính trị của mình về chế độ cộng sản. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2013 với tạp chí Filmmaker, bà nói rằng Trung Quốc là “nơi có những lời nói dối ở khắp mọi nơi”. Dĩ nhiên, bình luận đã gây ra phản ứng dữ dội với bộ máy cầm quyền cộng sản Trung Quốc.

Thế là bộ máy Ngũ Mao Đảng, tức Đảng 5 xu, lực lượng dư luận viên hùng hậu của đảng vào cuộc để tranh cãi, chửi bới tục tĩu bất kỳ ai khen ngợi phim hay tài năng của bà Chloe Zhao. Còn các dư luận viên cao cấp có lý luận thì viết bài dài trên các trang mạng như Weibo, Douban… chê bai kiểu có kiến thức. Những cuộc tranh luận dữ dội nói trên, ngược lại bộc lộ cho thấy những lo lắng sâu sắc của người dân Trung Quốc tỉnh táo về vấn đề văn hóa được kiểm duyệt dưới ánh sáng cộng sản, khiến cảm giác “cái gì vui, mới cũng có”, như thật ra nhu cầu “tự tin về văn hóa” của một dân tộc đang là vấn đề.

“Nhà nước cộng sản không thích một người từ đất nước, lớn lên bằng học thức tự do và trở nên có quyền lực với công chúng, đứng ngoài sự kiểm soát chính trị đã hình thành lâu nay của đảng”, một người bình luận có tên Nangxi trên trang Weibo, viết như vậy, “đặc biệt khi bà Chloe Zhao nói coi nước Mỹ như một quê hương”.

Sự kiện này nhắc về chuyện Việt Nam, cũng bẽ bàng không kém.

Vào năm 2013, trong danh sách đề cử giải Oscar, người ta thấy tên một người Việt, đó là đạo diễn Kim Nguyễn khi bộ phim "War Witch" (Phù thủy chiến tranh) lọt vào top 5 đề cử Phim nước ngoài hay nhất. Lập tức, như vớ được vàng, báo chí truyền thông Việt Nam hết đợt này đến đợt khác ngợi ca bộ phim về đề tài chiến tranh ở Congo, Châu Phi và luôn nhấn mạnh ý đạo diễn mang dòng máu Việt, tài năng gốc Việt… Thế nhưng sau một lần phỏng vấn trực tiếp, Kim Nguyễn nói rằng anh không muốn mình bị gán vào chữ gốc Việt, bởi anh sinh ra vào năm 1974 ở Canada, bởi từ ba anh, một kinh tế gia Việt Nam có nhiều hiểu biết về Việt Nam sau 1975, chia sẻ với anh. Thế là từ đó, Kim Nguyễn mất tích trên truyền thông Việt Nam, mặc dù anh ta vẫn là một trong những đạo diễn tên tuổi ở Montreal, Quebec, và vẫn hoạt động thường xuyên. Phim mới nhất của anh là The Hummingbird Project, hoàn thành vào năm 2018.

Trước đó, câu chuyện của nghệ sĩ piano Đặng Thái Sơn cũng là một ví dụ khó quên. Ông là người Châu Á đầu tiên đoạt giải cuộc thi Chopin lần thứ 10 ở Warsaw, Ba Lan, năm 1980. Bố của Đặng Thái Sơn là Đặng Đình Hưng, một nhà thơ nổi danh ở Hà nội. Ông thật sự là một người đa tài với hội họa, âm nhạc và cả kiến trúc. Năm 1956, tại miền Bắc Việt Nam, nhà thơ Đặng Đình Hưng cùng nhiều nhà văn, nghệ sĩ đã đứng lên tham gia một phong trào văn học có tên là Trăm hoa đua nở, để nói thẳng, viết thật. Những cái tên đứng cùng ông lúc đó có Phan Khôi – Chủ nhiệm tạp chí Nhân Văn, Trần Duy – Thư ký tòa soạn, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Văn Cao, Nguyễn Tuân, bà Thụy An. Có nhiều nhà trí thức, không phải văn nghệ sĩ, như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu cũng tham gia phong trào này và mọi người biết đến nó dưới cái tên là nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”.

Số phận của phong trào này, bị đàn áp và tù tội như thế nào, đó là một câu chuyện dài khác. Sau đó, ông Hưng chọn ly dị vợ là nghệ sĩ piano Thái thị Liên để bà cùng 3 đứa con được yên thân trong giai đoạn kinh hoàng ấy. Cuộc đời của Đặng Thái Sơn tưởng chừng như đã chìm vào bóng tối, nếu như không được vị giáo sư âm nhạc người Nga, gốc Do Thái tên là Isaac Katz, vô tình nghe thấy tiếng đàn qua một buổi tập.

Năm 1976, Đặng Thái Sơn được đi du học Liên Xô theo bảo lãnh của ông Isaac Katz, sau khi ông làm áp lực với phía Hà Nội, rằng nếu không đưa Sơn đi học được, thì ông cũng sẽ tác động Bộ Văn Hóa Nga ngừng các suất học bổng cho các “con ông cháu cha” thời đó.

Khi đi trên đường đi thi bằng hỏa xa, Đặng Thái Sơn viết thư cho bố mình, ông Đặng Đình Hưng rằng ““Con bị ốm nặng bố ạ, có lẽ vì hành trình đi Vác-sa-va (tiếng Ba Lan - Warzawa) quá dài mà con đi bằng xe lửa. Sứ quán bác đơn xin tiền lộ phí của con để đi thi, họ cũng khước từ bảo hộ cho danh xưng của con trong cuộc thi. Nhưng con quyết định liều và giáo sư Na-tan-xon (Natanson) một lần nữa lại giúp con, ông ấy cho con tiền đi đường, tiền thuê dàn nhạc đệm và tiền trọ… Trong cơn sốt 39.5 độ, con đã chảy nước mắt ròng: Các nước tham dự cuộc thi đều được chào cờ và cử quốc ca của mình, mà Việt Nam thì không có – Con tham dự với tư cách thí sinh tự do…”

Khi giành giải nhất ở Warsaw, thoạt đầu do không có quốc tịch rõ ràng, ban tổ chức định giương cờ Nga sô (vì lý lịch là được các giáo sư Nga đỡ đầu giới thiệu, và là thí sinh từng tốt nghiệp Học viện Âm nhạc Tchaikovsky với hạng xuất sắc), nhưng Đại sứ quán Việt Nam đã ngay lập tức điện về Hà Nội xin ý kiến và can thiệp, yêu cầu giương cờ Việt Nam, giới thiệu là thí sinh Việt Nam.

Và cuối cùng, thí sinh Việt Nam đó, nghệ sĩ Đặng Thái Sơn, cùng với người mẹ, bà Thái Thị Liên đã chọn định cư tại Montreal và xin nhập quốc tịch Canada, coi đó như một quê hương.

 

Monday, April 26, 2021

Màu của linh hồn

Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi xưa, nay là công viên Lê Văn Tám, trước khi giải tỏa thành công viên cũng là nơi dung nhận nhiều hài cốt quân nhân VNCH



Vô tình xem được một buổi trò chuyện của thầy Thích Pháp Hòa, vào cuối năm 2020, có một người đưa lên câu hỏi rằng chuyện nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng nói chuyện được với hồn ma, và đã từng giúp tìm được hàng ngàn hài cốt, vậy chuyện ấy là như thế nào. Sau đó, mọi người được một tràng cười.

Mọi thứ ngỡ là quá khứ xa lắm, phút chốc dội về với bao nhiêu thứ.

Chuyện một phụ nữ tuyên bố mình có khả năng nhìn thấy một cõi khác, có thể can thiệp và cứu giúp sự tồn tại trong hai thế giới cùng lúc, có thể là chuyện thú vị trà nước, nhưng cũng được nhìn thấy như một sự thao túng tiến trình sống thực tế của con người bằng những điều huyễn hoặc. Nó giống như việc các nhà triết học viễn mơ đưa ra lý thuyết đi về một xã hội cộng sản ở một cảnh giới nào đó, xa lắm nhưng lại thao túng con người ở xã hội đương thời với từng ngày, từng giờ, buộc phải đi đến.

Bà Hằng từng là nhân vật showbiz hạng nhất của xã hội Việt Nam từ giai đoạn 2009 đến 2013, đỉnh cao là những chương trình truyền hình theo chân bà, gọi là tìm hài cốt liệt sĩ. Hàng triệu người đã khóc cười, ngã nghiêng theo các điều được ca ngợi là kỳ diệu của bà, cho đến khi show truyền hình của đài VTV, có tên “Trở về từ ký ức” bất ngờ nói ngược lại mọi thứ, nói tất cả là một trò lường gạt của bà Hằng. Thậm chí các mẫu xương cốt tìm được, có sự xác nhận của Viện Pháp y Quân đội là toàn xương chó, mèo, heo.

Có vẻ như show truyền hình ấy đã theo chỉ đạo, kết thúc giai đoạn tôn vinh và sử dụng bà Hằng vì lý do nào đó, đặc biệt vào thời điểm có tin các nhóm sinh hoạt thờ ông Hồ Chí Minh có ước muốn bà trò chuyện với ông ở cõi âm. Và dù là bị tố là lừa gạt, và xúc phạm đến hài cốt bậc lão thành cách mạng như Phùng Chí Kiên, lại không thấy bà bị khởi tố, thậm chí bà cũng chẳng đưa ra lời giải thích nào. Thật lạ.

Một lần trả lời phỏng vấn vào năm 2010, bà Hằng khi được hỏi là ngoài việc thấy các linh hồn liệt sĩ, bà còn thấy gì khác không, bà nói là thấy mọi thứ, kể cả thấy nhiều linh hồn lính Ngụy chết, sợ sệt và mặc cảm vì mình là kẻ có tội. Vào năm tháng đọc được phần trả lời ấy, tôi nhớ rõ mình bật cười khan, vứt tờ báo sang một bên, từ chối nghe mọi sự thao túng của bà ta từ các câu chuyện huyền diệu được xưng tụng. Ối Hằng ơi là Hằng!

Trong bài “Chuyện chưa kể về nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng”, xuất hiện ở nhiều báo nhà nước, có đoạn nghe mà buồn nôn. Bà Hằng kể là khi đi tìm mộ liệt sĩ ở công viên Lê Thị Riêng, Sài Gòn, bà thấy một linh hồn lính Ngụy muốn nhờ bà nhắn giùm với gia đình, nhưng không dám vì luôn e sợ các liệt sĩ bộ đội chôn ở gần đó.

Trong một đoạn khác mô tả đi tìm mộ ở Bình Định, bà Hằng dành hẳn một đoạn kể là bọn Mỹ Ngụy ngày xưa ác lắm, mổ bụng moi gan một người trong làng và đóng đinh treo lên cây. Và còn mô tả là bà nhân đức nên thắp hương cho lính Ngụy nhưng “người trong làng xô ra không cho thắp”. 

Lời mô tả rập khuôn sách giáo khoa dạy căm thù. Thậm chí mô tả là dân làng nhắc đến Mỹ Ngụy là giận đến mức muốn lấy đá, búa… dần xương cốt của chúng được tìm thấy, may mà bà can ngăn.

Cuối cùng, linh hồn một anh lính Ngụy dắt bà đến chỉ chỗ một hài cốt bộ đội, và trong bài ghi chép ấy kể như sau: Hằng bảo với dân làng: “Vậy là anh ta đã lấy công chuộc tội rồi, mọi người không nên căm thù nữa nhé!”.

Trong cảnh giới tâm linh của bà Hằng, rõ ràng linh hồn có màu: Màu cách mạng, màu Mỹ Ngụy và màu nhân ái cao cả của tinh thần chủ nghĩa cộng sản.

Có thể bà Hằng rất giỏi chuyện tâm linh, có thể bà nhìn thấy được cõi âm, nhưng khả năng ấy cúc cung phục vụ cho định kiến, cho chính trị, nên mọi thứ của bà đọng lại, cũng chỉ là một loại tà quyền, hay tệ hơn, là tay sai của tà quyền. Có thể nhờ những công lao tạo dựng rõ cảnh trí “địch-ta” đó ở khung cảnh đại vĩ tuyến, mà bà Hằng bình an vô sự, thậm chí hôm nay vẫn nhận lời đi tìm hài cốt và diễn thuyết tự tin ở chùa Hoằng Pháp.

Một ngày cuối tháng 4, gợi nhớ giờ phút kết thúc một cuộc chiến nhưng không phải là thôi những cái chết oan khiên trên đất nước Việt Nam. Rồi nhớ đến chuyện của nhà ngoại cảm quốc doanh Phan Thị Bích Hằng, nên tự hỏi, có bao giờ bà lắng nghe những linh hồn thanh niên miền Bắc chết vô danh trên những chiếc võng ở dãy núi Trường Sơn, chết ngậm ngùi ở đồi Charlie, hay bà có nghe thấy lời của cô gái Đặng Thùy Trâm, chết mang theo một giấc mơ hòa bình thiếu nữ, vùi thân trong một cuộc chiến tranh khốc liệt mà không thể hiểu được, phía sau tiếng súng cuối cùng ấy, là gì?


Thursday, April 22, 2021

"Sự trở lại của văn học đô thị miền Nam": Đi đâu mà trở lại?

Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng


Hơn một năm trước, thật may mắn được chứng kiến buổi ngỏ ý của một nhà xuất bản, muốn tái bản lại cuốn Vòng tay học trò của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, một cây viết quen thuộc của độc giả miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Với Nguyễn Thị Hoàng, thì đó rõ là điểm sáng đáng quý trên bầu trời lấp lánh của văn chương tự do miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Rồi mới đây, thoáng thấy trên Facebook, báo điện tử... những lời chia sẻ với nhà văn Nguyễn Thị Hoàng với cuốn sách Vòng tay học trò vừa được tái bản, cùng sự hào hứng quen gọi tên là tác phẩm thuộc "dòng văn học đô thị miền Nam".

Nghe mà đột nhiên thấy chạnh lòng. Nghe "đô thị", có vẻ như co cụm và không thuộc về nhân dân. Nói như nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, nói văn chương "đô thị" miền Nam, thì không sai nhưng thừa. Bởi sự nhấn nhá riêng "đô thị" của miệng lưỡi tuyên truyền là thừa ác ý. Có nơi còn gọi là sự "trở lại"!

Thế nhưng văn chương miền Nam đi đâutrở lại?

Toàn bộ chữ nghĩa đã được hình thành, nuôi dưỡng và tồn tại suốt trong hai nền cộng hòa ở miền Nam Việt Nam chỉ có một hành trình duy nhất là đi xuyên qua sự thù hận, chà đạp và hủy diệt... mà dù có đau đớn hay rách nát thế nào, nền văn chương (hay nền văn hóa Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói chung) vẫn tiếp tục tồn tại trong một thời đại mới và tỏa sáng với những tư tưởng tự do không kiểm duyệt.

Văn chương miền Nam Việt Nam, tự nó cũng giống như số phận của ông Khai Trí, một người ước mơ đem sách và chữ đến cho dân tộc mình, rồi chính quyền mới, nói tiếng Việt, tịch thu. Gia sản tri thức bị đốt và bản thân ông cũng bị cầm tù. Nhưng câu chuyện Khai Trí và những ấn phẩm của ông vẫn tiếp tục lưu truyền một cách im lặng trong lòng người dân Việt Nam, mà có những giai đoạn phải thầm kín và gìn giữ trong nơm nớp sợ hãi không khác gì những tờ truyền đơn của người Do Thái trong thời Phát xít Đức.

46 năm, suốt thời thống nhất địa lý, văn chương miền Nam Việt Nam (chứ cũng không phải là đô-thị-miền-Nam), trở thành một di sản quý được tìm mua với những giá ngày càng đắt. Hãy thử nghĩ xem, vì sao một tổng tập của nhà thơ Tố Hữu có thể được in ấn tuyệt đẹp, trợ giá bán rẻ vẫn không có sức thu hút bằng một tập thơ mỏng, cũ rách của Nguyên Sa hay Thanh Tâm Tuyền?

"Văn học đô thị miền Nam" - cách gọi bị ám ảnh từ lối tuyên truyền văn hóa của chính quyền mới sau năm 1975 cho đến nay - vẫn ngầm chứa trong đó một sự khinh thị, chỉ để góp vào cái nhìn toàn cảnh cố không công nhận miền Nam Việt Nam là một chính thể. Rất nhiều những tham luận, những nghiên cứu, và cả cuốn sách dày cộp của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn "Văn hóa văn nghệ Việt Nam từ 54 đến 75" đều coi văn chương miền Nam là một thứ hỗn độn hình thành từ sự phồn vinh giả tạo của Mỹ-Ngụy. Báo Nhân Dân số ra ngày13-9-2016, với bài viết "Ứng xử với văn học miền Nam trước năm 1975" của tác giả Hạnh Nguyễn, còn nói với giọng trịch thượng rằng "bằng sự gạn đục khơi trong, chính quyền cách mạng đã cho phép lưu hành 1067 cuốn sách tiếng Việt, 562 cuốn sách tiếng Anh, 359 cuốn từ điển bằng tiếng nước ngoài".

Sự cho phép nó chỉ là một giả định trên đời sống thật. Không có phép thì suốt vài thập niên nay, người miền Nam vẫn ca hát những bài hát không được duyệt, thậm chí còn làm cho nó lan ra đến cả nước. Sách vở không được in, không có phép thì vẫn được chuyền tay nhau, và vẫn được thế hệ mới ngày hôm nay tìm đọc với một sự thích thú về khung trời tự do trong tư tưởng. Cho phép và không cho phép, chỉ là màn trình diễn giả định về luật pháp giữa người dân và chính quyền, nghiễm nhiên tồn tại suốt bấy lâu nay.

Vì vậy, cách nói rằng văn chương đô thị miền Nam "trở lại", khi có dăm ba cuốn sách cũ tái bản, có vẻ khiên cưỡng trong sự thật lịch sử của một di sản văn hóa vĩ đại của Việt Nam Cộng Hòa.

Nói "trở lại" là giả tạo trong việc mô tả một chính quyền đủ tốt để dung nhận tất cả. Giả tạo như tất cả mọi thứ trong cuộc sống đang là một vòng quay đẹp đẽ theo tự nhiên, nhưng lờ hẳn phần xin lỗi về một giai đoạn mà những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã từng bị tù đày, và tác phẩm của họ thì bị đấu tố như kẻ thù của dân tộc.

Trong tiểu luận "Văn học Miền Nam 1954-1975: những Khuynh hướng chủ yếu và thành tựu hiện đại hóa" của giáo sư, tiến sĩ Huỳnh Như Phương, mô tả về căn nguyên quan trọng ra đời của nền văn hóa văn nghệ Miền Nam Việt Nam là bởi "nhờ đồng lương và các khoản thu nhập khác, nên một bộ phận công chức và giới trung lưu có thể chi tiêu những khoản tiền vào việc mua sắm theo ý muốn, ngoài các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính đây là tiền đề dẫn đến sự hình thành một thị trường văn nghệ ở miền Nam những năm 1954-1975".

Có vẻ sự căn bản hình thành của văn chương miền Nam Việt Nam thực dụng và không được cao quý, theo cách mô tả của tất cả những ngôn luận nhận định từ bên thắng cuộc. Nhưng lại không hiểu vì sao hàng chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, với những thành tựu xuất chúng, như trên báo chí vẫn nói, xã hội cách mạng hôm nay vẫn reo mừng khi những thứ bị chà đạp ấy quay "trở lại", như Vòng tay học trò của nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng , và của nhiều trí thức từng bị phủ nhận khác.

Thursday, April 15, 2021

"Chống đảng Cộng sản và nhà nước, chỉ có thể là tâm thần".

Hầu như ai yêu văn chương, cũng đều biết đến nhà thơ người Nga, gốc Do Thái Joseph Brodsky. Đến Mỹ từ đầu thập niên 70, Brodsky trở thành một trong những biểu tượng hàng đầu về ngôn ngữ thi ca. Nhiều giải thưởng quốc tế trao cho ông để vinh danh, trong suốt một thời gian dài, cao quý nhất là Nobel Văn chương năm 1987.


Cho tới khi Brodsky qua đời (1996), đa số giới phê bình vẫn đồng quan điểm rằng ba nhân vật quan trọng hàng đầu, là Joseph Brodsky, Octavia Paz và Gabriel Garcia Marquez đã kiến tạo nên sự đẹp đẽ của ngôn ngữ thi ca văn chương thế kỷ 20.

Ấy vậy mà, ít ai tưởng tượng được, trong thời kỳ sống và sáng tác ở Liên Xô, Brodsky bị mật vụ đưa vào các trại tâm thần, chỉ vì ông có đường lối sáng tác riêng, cũng như không khuất phục các yêu cầu tư tưởng từ lãnh đạo chính trị. Bị kết án là phi lao động và là thành phần có tư tưởng phản Xô-viết, Brodsky ra tòa vào tháng 3-1964, và bị đưa vào trại tâm thần, bên cạnh việc lao động cưỡng bức.

Một nhân vật kiệt xuất của loài người như Joseph Brodsky, mà cũng bị đưa vào trại cưỡng bức điều trị tâm thần, thì có lẽ không còn ai sống trong chế độ cộng sản có đủ nhân tính, đủ tỉnh táo lại được tự do bên ngoài.ư

Trong một lần trả lời phỏng vấn ở Mỹ, sau khi định cư, nhà thơ Brodsky kể rằng mình bị giam trong phòng riêng ở trại tâm thần, và được y tá đến tiêm những loại thuốc 'an thần' không tên. Nếu kháng cự, ông sẽ bị trói và giường và được chụp hình lại để làm bằng chứng trong hồ sơ về mức độ nguy hiểm của giai đoạn tâm thần. Brodsky thường bị đánh thức vào nửa đêm, các bác sĩ và y tá “điều trị tâm thần” dẫn ông đi, xịt nước và bắt ngâm mình trong bồn nước lạnh.

Từ thời Josef V. Stalin, việc đẩy các tù nhân chính trị vào trại tâm thần để cách ly với xã hội khá phổ biến, nhưng đến thập niên 60, thời của tổng bí thư Leonid Brezhnev, tâm thần được biến hóa thành một công cụ hoàn chỉnh để loại bỏ các đối thủ chính trị  hay những người bất đồng chính kiến, hoặc thậm chí với những người dám công khai bày tỏ sự mâu thuẫn với giáo điều cộng sản.

Trong tiếng Nga, có chữ Psikhushka (психу́шка), mà hầu hết những người có hiểu biết về chế độ cộng sản đều nhớ đến nó như một nỗi ám ảnh. Trong thời đại cưỡng ép mọi người phải cúi đầu trước chủ nghĩa Marx-Lenin và bạo quyền, toàn cõi Liên Xô khi nhắc về Psikhushka, là nhắc những trại tù tâm thần, với đủ các trò tra tấn để hủy diệt con người không chịu khuất phục.

Thậm chí, các cuộc tranh luận về tính thực tế của lý thuyết Marx, Lenin… trên báo chí hay các diễn đàn, người thắng cuộc phản biện cũng có thể bị đưa vào nhà thương điên, với chẩn đoán chuẩn mực Xô viết, là những kẻ philosophical intoxication - bị ngộ độc triết học, và cần phải được chạy chữa.

Mikhail I. Buyanov, bác sĩ tâm thần và thần kinh học, viết trong cuộc khảo sát lịch sử về tâm thần học của Liên Xô sau khi hệ thống này tan rã, do Uchitelskaya Gazeta xuất bản, viết rằng “các nhà lãnh đạo thỏa thuận với nhau về nội dung: ở đất nước chúng tôi không có những người bất đồng chính kiến ​​- chỉ có những người tâm thần mất trí hay vi phạm pháp luật”. Đến thời của Nikita S. Khrushchev, lời giải thích chính thức kèm theo, trở thành câu nói cửa miệng của giới công an, là “không một người lành mạnh nào chống lại chủ nghĩa xã hội”.

Lịch sử vẫn ghi lại rõ tội ác của những kẻ thủ ác, từ những trại tập trung của Phát xít Đức trong đệ nhị thế chiến, cho đến vụ thảm sát dân thường ở Hungary vào năm 1956 của Hồng quân Liên Xô. Thế nhưng ghi chép về các âm mưu biến người bất đồng chính kiến thành các bệnh nhân tâm thần trong thời chiến tranh lạnh, chưa bao giờ tỏ rõ được hết sự man rợ của các nhà lãnh đạo cộng sản. Đặc biệt trong đó có sự hợp tác của các bác sĩ được gọi là chuyên gia tâm thần. Sau này, trong cuốn State of Madness: Psychiatry, Literature, and Dissent After Stalin (tạm dịch: Tình trạng cuồng điên: Tâm thần học, Văn chương và Bất đồng chính kiến thời sau Stalin), tác giả Rebecca Reich gọi các loại bác sĩ đó là những nhà viết kịch bản đại tài để bỏ tù những người bất đồng chính kiến.

Chẳng hạn như với trường hợp của nhà thơ Joseph Brodsky, không có hồ sơ bệnh án nào. Nhưng từ phán quyết của Snezhnevsky, một bác sĩ “chính trị tâm thần” lừng danh trong thời Xô-viết, đã trở thành mệnh lệnh trước tòa để quyết định đưa Brodsky đi “điều trị tâm thần”. Ông này đã nói rằng “nhìn Brodsky là biết có bệnh tâm thần phân liệt”,  và Snezhnevsky kết luận rằng “anh ta không phải là một người có giá trị gì cả và nên cho đi vào trại tâm thần”. Lúc đó, Joseph Brodsky chưa đến 24 tuổi.

Liên Xô được coi là văn minh nhất, vì có cả những tòa án xét tội tâm thần. Tại tòa, Brodsky bị đại diện Viện kiểm sát kết án là “đã không thực hiện được nghĩa vụ hiến định của mình là làm việc lương thiện vì lợi ích của Tổ quốc”. Khi ấy, ông bị chất vấn “ai cho phép anh xưng là nhà thơ, ai cho phép anh tự mình đứng vào hàng ngũ các nhà thơ?”' - “Không ai cả”, Brodsky trả lời, “Vậy ai đã ghi danh tôi vào hàng ngũ loài người?”. Sau cuộc đối chất đó, Joseph Brodsky bị kết án 5 năm, vừa chữa tâm thần, vừa cải tạo lao động cưỡng bức 5 năm tại tỉnh Arkhalgelsk, miền bắc nước Nga.

Tài liệu điều tra của nhà nghiên cứu Benjamin Zajicek (The Psychopharmacological Revolution in the USSR: Schizophrenia Treatment and the Thaw in Soviet Psychiatry, 1954–64), phát hiện rằng vào những năm 1950 và 1960, sự ra đời của các loại dược phẩm tâm thần mạnh mẽ, đặc biệt là Chlorpromazine (Thorazine), các bác sĩ “chính trị tâm thần” Liên Xô đã lạm dụng với tên Aminazine, và sử dụng tùy tiện nơi các tù nhân chính trị, các nhân vật bất đồng chính kiến. Thậm chí, Liên Xô còn hợp thức hóa việc điều trị chuyên biệt ở bệnh viện, sang điều trị 'hỗ trợ' trong cộng đồng, tức một người nào bị tạm giam 1 hay 4 tháng để điều tra ở bất kỳ đồn công an nào, họ cũng có thể bị ép hoặc lừa dùng thuốc này, để thao túng lời khai hay trạng thái của người bị giam giữ.

Tài liệu này cũng ghi nhận, ít nhất sau 12 tháng điều trị, nếu thấy thể chất của người bị áp dụng thuốc vẫn tốt, thường liều lượng được tăng lên gấp 2 hoặc gấp 4 lần, để phục vụ việc ra tòa hoặc kết thúc nhanh sự vụ.

Việc cưỡng bức điều trị tâm thần ở Liên Xô bị tố cáo trong các kỳ Đại hội của Hiệp hội Tâm thần Thế giới ở Mexico City (1971), Hawaii (1977), Vienna (1983) và Athens (1989), gây ra thiệt hại không thể cứu vãn đối với uy tín của nền y học Liên Xô. Thậm chí năm 1974, nhà tranh đấu Vladimir Bukovsky và bác sĩ tâm thần bị giam giữ Semyon Gluzman đã cùng viết cuốn Cẩm nang hướng dẫn đối phó về việc bị cưỡng bức điều trị tâm thần cho những người bất đồng chính kiến, cung cấp cho các nạn nhân tiềm năng của bệnh “tâm thần vì chính trị”, hướng dẫn cách cư xử trong quá trình điều tra để tránh bị chẩn đoán là bệnh tâm thần.

Sự việc bùng nổ hơn vào năm 1968, khi nhà ngôn ngữ học Viktor Isaakovich Fainberg, nhân vật nổi bật của phong trào bất đồng chính kiến ​​ở Liên Xô, cùng 6 người bạn của mình biểu tình ở Quảng trường Đỏ phản đối Liên Xô xâm lược Tiệp Khắc, qua đó khởi phát Chiến dịch chống lạm dụng tâm thần.

Về vấn nạn cưỡng ép người khác biệt quan điểm chính trị hay hoạt động xã hội vào trại tâm thần, có thể được xem Liên Xô là anh cả, kế đến là Trung Quốc và nhiều nước cộng sản đàn em khác. Thập niên 2000, việc đưa vào trại tâm thần được áp dụng nhiều ở Trung Quốc và các nước cộng sản và độc tài, vì rất tiện lợi: không cần ra tòa, chỉ cần có công an và bác sĩ thỏa hiệp với nhau. Nhưng khác với thời chiến tranh lạnh, giờ đây, hành động đó hiển nhiên được coi là tội ác chống loài người, dù được ngụy trang với bất kỳ vỏ bọc nào.

Năm 1996, nhà thơ Joseph Brodsky qua đời tại căn hộ của mình ở Brooklyn Heights, New York. Sau đó ít lâu, Vladimir Radunsky, một họa sĩ Nga hâm mộ ông, đến làm một bia mộ, trên đó có dòng chữ tiếng Latin “Letum non omnia finit” (Chết chưa là hết). Diễn ngôn này mô tả danh tiếng của Brodsky, nhưng có lẽ cũng nhắc cho mọi người nhớ, nhà thơ vĩ đại này ra đi, nhưng ký ức về loại tội ác với con người của chế độ cộng sản, mà ông là một trường hợp, sẽ luôn được ghi nhớ.

Wednesday, April 14, 2021

Cưỡng bức "điều trị" tâm thần trong chế độ cộng sản

 

Chắc nhiều người vẫn còn nhớ cô gái nhỏ dũng cảm, tên Dong Yaoqiong (Đổng Dao Quỳnh) ở tỉnh Hồ Nam, từng bày tỏ thái độ phản đối sự đàn áp và độc tài của Tập Cận Bình trên quê hương mình bằng cách đứng trước tấm biểu ngữ có hình họ Tập, hắt lọ mực đen vào và đưa lên trang twitter. Sự kiện này được nhiều báo thế giới đưa tin, bởi hành động này được coi là quá táo bạo trong giai đoạn Tập đang trong nỗ lực bỉ ổi, vừa ngồi ghế trưởng đảng cộng sản, lại vừa chiếm luôn ghế chủ tịch.

Trong video, Dong giải thích rằng cử chỉ này của cô nhằm “nói công khai rằng tôi phản đối chế độ độc tài chuyên chế của Tập Cận Bình và sự áp bức kiểm soát tư duy do Đảng Cộng sản Trung Quốc áp đặt”.

Nhanh chóng sau đó, Dong đã bị công an đến nhà bắt đi, với tội danh đầy chất thiên triều “xúc phạm lãnh tụ”. Cả một hệ thống báo chí và tuyên truyền viên tay sai nhà nước đã chửi rủa cô ta dữ dội, vì cho là đã dám xúc phạm đến một nhân vật vĩ đại.

Chuyện xảy ra vào tháng 7, năm 2018, hàng triệu người Trung Quốc đã xao xuyến theo dõi số phận của cô gái này. Bỏ tù thì hơi mất mặt, Dong bị nhà cầm quyền đưa đến bệnh viện tâm thần để điều trị “rối loạn hành vi và cảm xúc”. Đến gần cuối năm 2020, cô Dong được thả về nhà. Gia đinh của cô nói rằng giờ đây cô là một con người khác, suy giảm trí tuệ và im lặng ngơ ngác, hỏi gì cũng không nói. Cái gọi là bệnh viện tâm thần của của chế độ cộng sản lộ ra một hình ảnh khác: nơi thí nghiệm các loại độc dược và đày ải thể chất con người, khiến họ không còn như bình thường nữa.

Nhưng Dong không là trường hợp cá biệt. Cô chỉ là một người bị hủy hoại trí tuệ nổi tiếng, và may mắn trở về gia đình sớm. Theo tài liệu nghiên cứu của Jerome A. Cohen, giáo sư tại New York University School of Law từ năm 1990, và là trưởng khoa Asia Law Institute, chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc, thì mỗi ngày ở Trung Quốc, có đến hàng trăm người bị đưa vào những cơ sở cưỡng bức điều trị tâm thần như vậy.

Dĩ nhiên, điều cốt lõi của các vụ “điều trị” đó, là các bác sĩ không bao giờ đưa ra các giải thích về tình trạng và cách trị liệu. Các loại thuốc khi đưa đến ép bệnh nhân uống hay chích, thường bị giấu các bao bì. Gia đình của các “bệnh nhân”, thì có kêu gào tìm hiểu việc cưỡng bức điều trị đều không nhận được bất kỳ tờ giấy nào, thậm chí, có đến tận mặt bác sĩ, y tá… chỉ được câu trả lời trở thành hiến pháp của ngành công an các nước cộng sản, là “chỉ làm theo lệnh cấp trên”.

Năm 2014, dưới áp lực của quốc tế, và để không bị nhìn là một chính quyền tà ác, Bắc Kinh đã cho phép thông qua luật sức khỏe tâm thần. Những trường hợp được công luận soi chiếu, càng làm rõ hơn phương thức “điều trị để thật sự điên” của hệ thống cộng sản. Số phận của một người đàn ông tên là Xu Wei (Từ Vị) được thoát khỏi cuộc”điều trị” sau 15 năm nhốt và cưỡng ép nhồi thuốc ở bệnh viện tâm thần Thượng Hải đã là nguồn cảm hứng của truyện ngắn và phim. Lý do chính quyền bắt anh ta phải điều trị tâm thần, là bởi anh nộp đơn kiện các cơ quan chính phủ khác nhau vì nhận thấy những bất công về đất đai, chết bất thường trong đồn công an, kêu oan cho tù nhân… Năm 2017, Xu Wei được trở về đời thường, không bị kết luận tâm thần. Lúc đó anh đã vào tuổi 50.

Nhưng Xu kể rằng, anh đã chứng kiến những người bị cưỡng bức điều trị tâm thần vì chính kiến như vậy, đến hết cả một đời.

Tương tự như thời chiến tranh lạnh, ở nước Nga, việc lạm dụng từ ngữ và chẩn đoán, là cách mà các hệ thống cộng sản vẫn hay đưa người bất đồng chính kiến, hoặc những người mà họ cho là đã “làm phiền” nhà nước, dù mọi trình tự theo đúng luật. Cho là bị “tâm thần”,  sẽ đạt được 3 mục đích trên bề mặt: giam giữ không cần án, cô lập với mọi tin tức xã hội và dễ bị quên lãng vì gọi là “điên”.

Sau thời kỳ hệ thống cộng sản Đông Âu sụp đổ, chính quyền Trung Quốc đã trở thành đối tượng chính bị chỉ trích rộng rãi vì sử dụng các khu điều trị tâm thần và các “cơ sở giáo dục”, bao gồm các trung tâm cai nghiện ma túy và mại dâm, trại “cải tạo chính trị” và “nhà tù đen” để áp đặt việc giam giữ tùy tiện.

Trung Quốc cũng là thầy giáo giỏi với các nước được coi là thân thiết, chung lý tưởng, trong các giáo trình hủy diệt con người như vậy, cải tiến và thâm độc hơn cả Liên Xô cũ.

Theo báo cáo gần đây nhất của Tổ chức phi chính phủ Chinese NGO Civil Rights and Livelihood Watch (Theo dõi Sinh kế và Quyền dân sự), ngành y tế của Trung Quốc đã “tiếp tục thông đồng với chính quyền trong việc tống giam những người chỉ trích chính phủ”. Dù gọi là có luật,  bản thân Luật Sức khỏe Tâm thần (Mental Health Law ) quá rộng và mơ hồ để có thể thực hiện đúng.

Khác với điều trị ung thư hay lao phổi chẳng hạn, các loại biệt dược được áp đặt cho các “bệnh nhân” được phía công an chuyển qua trại tâm thần. là những thứ bí mật quốc gia, không bao giờ được công bố. Nó là một phần của lịch sử đen tối của bất kỳ quốc gia cộng sản nào đang vẫn lừa dối nhân dân, và hò reo thứ chính nghĩa trá ngụy của họ.

 

(Theo hồ sơ từ ChinaFile, a project of the Center on U.S.-China Relations at Asia Society. Center on U.S.-China Relations)