Thursday, March 28, 2019

Khi sân khấu tín ngưỡng hạ màn


Sư thầy ở chùa Ba Vàng, lưu niệm cùng các quan chức đến tham quan.



Có thể thấy rằng vụ bê bối chùa Ba Vàng đang được dàn xếp rất nhanh, gói ghém lại mọi thứ, với mục đích không để công luận xoáy vào và tìm hiểu thêm. Trên website của chùa, hình ảnh liên quan với các quan chức nhà nước cấp cao đã được gỡ sạch trong một đêm. Các quyết định trừng phạt cá nhân nhanh chóng được đưa ra, cùng với việc trụ trì Thích Trúc Thái Minh trở nên im lặng, cho thấy từ bên trên chính quyền đã có một quyết định chung cuộc.

Tất cả những điều đó, như đang muốn chặn đứng câu hỏi dồn dập từ quần chúng “ai bảo kê cho chùa này?”, “ai đầu tư kiếm lợi từ chùa?” và số tiền khổng lồ hàng năm không có thuế, chỉ nằm trong két sắt của chùa, hay còn được chuyển vào tài khoản của quan chức nào khác?

Làm tiền, lũng đoạn tinh thần tín ngưỡng của quần chúng và âm mưu làm băng hoại hình ảnh Phật giáo, là những gì đang diễn ra ở Việt Nam. Chùa Ba Vàng chỉ là một điểm trong tấm bản đồ dày đặc chạy dài suốt Việt Nam. Nên nếu để thông tin tự do lan tràn và đào sâu, chuỗi mạo danh nhà Phật này sẽ bị bóc trần toàn bộ.

Sự kiện chùa Ba Vàng, Quảng Ninh gợi nhớ về những sự kiện tương tự ở người đàn anh vô thần Trung Quốc. Năm 2015, sư trụ trì Shi Yongxin, người được biết đến như là một “CEO Thượng tọa” cho việc kinh tài của Thiếu Lâm Tự, bị tố giác là lạm dụng tiền bạc trong nguồn thu khổng lồ của chùa này, cũng bao gồm từ việc cúng sao, giải hạn, cầu an, bán vé vào cửa… Theo cáo giác, chỉ trong năm 2015, chỉ riêng việc bán vé vào tham quan chùa thôi, với 100 nhân dân tệ/người, Thiếu Lâm Tự đã thu về khoảng 7,3 triệu USD.

Nhưng sự việc không ngừng ở đó, khi mọi chuyện đổ bể, người ta biết được Thiếu Lâm Tự chỉ giữ lại được có 1 phần 3 số tiền đó. Phần còn lại thì được chia cho quỹ đen của chính quyền địa phương. Trong bài phân tích có tựa đề The decline and fall of Chinese Buddhism – how modern politics and fast money corrupted an ancient religion (tạm dịch: Sự suy tàn và sụp đổ của Phật giáo Trung Quốc – làm thế nào mà chuyện chính trị và làm tiền nhanh đã hủy hoại một tôn giáo có từ ngàn xưa) của tác giả Mimi Lau, đăng trên tờ SMCP, tháng 9/2018, có nói rõ rằng Thiếu Lâm Tự cũng như hàng ngàn ngôi chùa mới được xây dựng ở Trung Quốc, luôn có một hội đồng điều hành, mà trong đó các đảng viên CS, quan chức nhà nước cùng tham gia.

Một nghiên cứu của giáo sư Zhe Ji, từ Viện Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông ( Institut National des Langues et Civilisations Orientales) tại Paris, cho thấy ở nhiều chùa, thủ quỹ là người được chính quyền địa phương chỉ định. Chi tiêu riêng cho chùa phải trình lên, trụ trì cũng không được tự quyết”.

Dĩ nhiên, giờ đây, buôn bán thánh thần, và diễn đạt tín ngưỡng dưới ngọn cờ tam vô của chủ nghĩa cộng sản, là những nơi có thể làm ra tiền nhanh và nhiều đến mức chóng mặt.

Cách đây 10 năm, chính quyền Bắc Kinh tìm ra đủ các phương thức mà quan chức tham nhũng giấu hay chuyển tiền đi. Nhưng từ khi việc đầu tư vào xây chùa, đền thờ, dựng lễ hội ra đời… là cách thức rửa tiền nhanh và hợp pháp nhất mà quan chức đích thân ra tay, hoặc núp bóng dưới các công ty đầu tư du lịch. Đó là lý do vì sao, chính quyền Bắc Kinh với chính sách nhất quán thù ghét tôn giáo, nhưng lại cho phép xây dựng hàng ngàn chùa, đền, tượng Phật lớn kỷ lục… trong suốt 3 thập niên.

Nói về tốc độ xây dựng chùa, đắp tượng lớn, theo thống kê của Giáo hội Phật giáo quốc doanh Việt Nam, từ năm 1997, đến năm 2007, cơ sở thờ tự Phật giáo chỉ tăng lên vài trăm (từ 14.048 ngôi, lên 14.777 ngôi). Nhưng vào thời gian gần đây, từ 2007 đến 2017, đã có đến 18.466 ngôi. Con số tăng trưởng này, giải thích phần nào tình trạng đột phát các chùa tranh nhau gây quỹ, thu tiền, bịa đặt các nghi thức đắm đuối mê tín… Ghê sợ hơn, qua việc tập hợp đám đông, những nơi như vậy còn dẫn dụ đám đông quên đi hiện thực điêu tàn của đất nước, chia rẽ tôn giáo và thậm chí còn hủy hoại cả lòng yêu nước trước ngoại bang.

Một điều dễ thấy của đạo pháp – xã hội chủ nghĩa, là chính quyền không chủ trương tạo ra những bậc cao tăng, những bậc trí giả Phật giáo để giác ngộ chúng sinh, mà chỉ tạo ra đám đông mặc áo sư cùng chuông đồng và nhang khói. Bởi bản chất của chính quyền tam vô luôn lo sợ các bậc trí giả đó sẽ hướng chúng sanh đi vào chính đạo. Theo tài liệu của nhà nghiên cứu Mimi Lau, Trung Quốc vĩ đại chỉ có 240.000 đại đức, nhưng hơn phân nửa là từ Tây Tạng. Quốc gia rộng lớn này thu tiền vô kể từ Phật giáo, nhưng chỉ có 41 trường đào tạo Phật học, nhưng người đến học thì bị kiểm soát chặt bởi Ban tôn giáo Chính phủ (State Administration of Religious Affairs). Ngay tại Việt Nam, sau 44 năm thống nhất địa lý, nhà nước cộng sản Việt Nam đã không thể có được những bậc trí giả Phật giáo như Tuệ Sỹ, Thích Nhất Hạnh, Lê Mạnh Thát…

Phía sau sự phát triển Phật giáo như một cách kiếm tiền nhanh và lũng đoạn quần chúng là gì? Các nghiên cứu từ Trung Quốc cho thấy nhiều trụ trì vì ganh tị với cách kiếm tiền của nhau, lại dựa thế có có các quan chức hay giới tài phiệt đỏ chống lưng, nên vẫn tìm cách hãm hại, đạp đổ nhau.

Cũng là chùa dựa vào mê tín, vòi tiền tín hữu… nhưng Thích Thanh Quyết lại mạnh miệng chỉ trích Thích Trúc Thái Minh. Phía sau của Thích Thanh Quyết là một vị thế chính trị vững chắc hơn, đang hậu thuẫn chăng? Thật khó đoán. Nhưng điều có thể nhìn thấy ngay lúc này, là những kẻ giả sư, giả đạo đang đẩy dân tộc và đất nước vào con đường như điên như dại. Sân khấu tín ngưỡng ấy, cũng đang hạ màn như qua một cuộc giải vong.
x

Wednesday, March 27, 2019

Sự sa lầy tương đồng, giữa Phật giáo quốc doanh Trung Quốc và Việt Nam



Tương tự như Trung Quốc, mối quan hệ giữa nhà cầm quyền và Phật giáo tại Việt Nam hết sức phức tạp. Đó là mối quan hệ lợi dụng qua lại lẫn nhau, mà các nhà phân tích xã hội gọi đó là bài tính có kết quả tổng bằng không cho cả hai bên. Bởi những người trung thành với lý thuyết Cộng sản dần dà tự tìm đến Phật giáo để tự chữa lành phần tinh thần trống rỗng của mình, một mô hình tín ngưỡng duy nhất được cho phép tồn tại đại chúng trong nền chính trị vô thần. Và ngược lại, những người mộ đạo thuần khiết thì dần dần tự rời bỏ không gian Phật giáo quốc doanh, vì nhận ra rằng đó chỉ là một trò mua bán tinh thần được dựng nên bằng tiền và chính trị.

Phật giáo ở Trung Quốc được hoạt động bình thường từ thập niên 1980, sau cái chết của Mao Trạch Đông, kẻ đã nhấn Phật giáo ở Trung Quốc xuống tận bùn đen, đẩy các giá trị ngàn đời của Chùa và kính sách vào ô nhục ở cuộc cách mạng văn hóa kéo dài từ 1966 đến 1976. Khởi đầu thì đó chỉ là chính sách sửa sai, nhưng pha trộn âm mưu mô hình Phật giáo do Ban tôn giáo của Trung ương Đảng chỉ đạo, thường được người đời gọi mai mỉa là Phật giáo quốc doanh. Nhưng rồi giới chóp bu ở Bắc Kinh nhanh chóng nhận ra, Phật giáo quốc doanh lại là một nguồn thu khổng lồ, có thể nuôi sống các bộ máy chính quyền hay quan chức địa phương, và lại dễ dàng đối ngoại như một kiểu “tự do tôn giáo”.
Ngay lập tức Chùa chiền, kinh sách, tượng Phật lớn kỷ lục… được dựng nên bằng tiền của các doanh nghiệp đầu tư, thậm chí tiền bẩn của các quan chức tham nhũng… nhằm thu hút dân chúng. Trong thời đại của Mao, chùa các nhà sư bị đẩy đi làm ruộng, chăn nuôi… để gọi là có ích cho sự phát triển đất nước. Nhưng đến thời đại của Đặng, các nhà sư được ăn mặc đẹp, tổ chức lễ hội… tạo ra nguồn thu lớn, mà nhà nghiên cứu người Trung Hoa Zhe Ji viết trong tiểu luận “Phật giáo và Nhà nước: Mối quan hệ mới” (2008), tạm gọi tên là “Nền kinh tế nhà Chùa” (monastic economy).

Ở Việt Nam, sau năm 1975, tôn giáo bị coi là “thuốc phiện của nhân dân”. Chùa bị chiếm, cơ sở Phật giáo và kinh sách vở bị tịch thu, nhiều tăng ni và tín hữu Phật giáo của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất bị bắt, kết án, giam lỏng, tù và đi cải tạo đến chết. Để tạo ra Giáo Hội của Nhà nước, một Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam đã được tổ chức tại Quán Sứ, Hà Nội, được triệu tập bởi Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam vào ngày 7 tháng 11 năm 1981, sau đó thành lập nên Giáo hội này, từ đó về sau được định nghĩa là giáo hội quốc doanh bởi tôn chỉ rất rõ “Đạo pháp, Dân tộc, Chủ nghĩa xã hội”. Dĩ nhiên, mục đích cũng nhằm thủ tiêu hệ thống Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.

Phật giáo Việt Nam bị dòm ngó như một loại con rơi, tạm tồn tại trong xã hội cộng sản. Nhưng đến năm 2003, Bộ chính trị Cộng sản VN nhận ra việc cho phép tín ngưỡng tồn tại có lợi cho mình hơn là tiêu diệt đi. Đặc biệt là sau thời gian 1995, khi Việt Nam được bỏ cấm vận và đối diện với Liên Hợp Quốc về nhiều vấn đề Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, bao gồm tự do tín ngưỡng.
Ngày 12 tháng 3, năm 2003, Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN ra nghị quyết số 25-NQ/TW, do đảng trưởng đảng CSVN là Nông Đức Mạnh ký, đã xác định một đường lối mới, cho phép tôn giáo được tồn tại trong xã hội, nhưng trong Mục II, phần 4, nhấn mạnh rằng “Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.”

Kể từ đó, Phật giáo quốc doanh ở VN được đẩy mạnh hoạt động, không chỉ về mặt vật chất và còn cả về con người được nhà cầm quyền đầu tư đi học lý thuyết Phật giáo, khoác áo làm sư và kiểm soát nhiều tăng viện. Thậm chí luồng nhân lực đó, được đẩy ra hoạt động ở hải ngoại, nơi có các cộng đồng người Việt tự do đang quần cư.

“Giới Phật giáo (quốc doanh) tại Trung Quốc hiện tận hưởng nhiều tự do trong việc xây dựng các chùa chiền, tuyển mộ tăng sĩ, tổ chức các nghi lễ và truyền bá tín ngưỡng theo kiểu của họ” tác giả Raoul Birnbaum trong cuốn Buddhist China at the Century’s Turn (2017) cũng ghi nhận như vậy. Nhưng bên cạnh đó, khi thu được lợi nhuận từ “Nền kinh tế nhà Chùa”, nhà nước cộng sản cũng tự lũng đoạn các giá trị thuyết vô thần của mình khi để cho sự sùng bái tín ngưỡng tăng nhanh, hỗn loạn, thậm chí dẫn đến các cực của mê tín.

Điều gì phải đến, rồi đã Raoul Birnbaum đến. Các vụ bê bối sư thầy và chùa ở Trung Quốc liên tục xuất hiện trong thập niên 90, qua đến tận lúc này. Rất nhiều lời chỉ trích đã xuất hiện trên các trang mạng Trung Quốc về chuyện các sư xài tiền như nước, và bao quanh là các nữ tín hữu trẻ đẹp. Gần đây lại là các vụ bê bối về tình dục đã bùng nổ, liên quan đến các sư danh tiếng ở Bắc Kinh, Hà Nam… và đó lại là những nơi dẫn đầu về “nền kinh tế nhà Chùa”.

Câu chuyện chùa Ba Vàng chỉ là một trong những nơi đang lạm dụng mê tín, phản bội tinh thần Phật giáo chính tông, phụng sự cho thế quyền và mua bán tín ngưỡng. Từ Nam chí Bắc, những lời ta thán như vậy vẫn xuất hiện không ngớt trên các trang mạng xã hội, cùng hình ảnh tố cáo. Nhưng nếu chú ý, hình thức trừng phạt những người đã tạo ra các bê bối đó - ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc – thường là kiểm điểm hoặc khai trừ khỏi các chức vị. Đó cũng là một biểu hiện cho thấy tổ chức tôn giáo giờ đây cũng hành xử như một chi bộ đảng, điều đó hoàn toàn khác biệt với một tổ chức tôn giáo chân chính.

--------------------
Tranh minh họa của họa sĩ Trung Quốc Kuang Bao

Thursday, March 14, 2019

Bằng yêu thương, họ bước qua nguy nan (2)


Năm 2013, linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành nhận được lời đề nghị tiếp nối việc giúp đỡ cho các quý ông TPB-VNCH từ hòa thượng Thích Không Tánh. Lúc đó sức của chùa Liên Trì không còn đủ để lo cho các quý ông TPB-VNCH nữa, vốn số lượng tăng lên ngày càng nhiều, cũng như các cuộc ngăn cản của công an tại chùa Liên Trì, Thủ Thiêm, khi đó ngày càng gắt gao hơn.
Linh mục Phạm Trung Thành nói rằng lúc đó, ông chợt nhận ra một sứ mạng lớn phải theo đuổi, không chỉ là việc giúp đỡ cho kẻ khó, mà như ông tâm tình dưới đây, đó là một hành trình lên tiếng cho sự thật và công bằng.
Và rồi chương trình tri ân “Bên nhau đi nốt cuộc đời” bắt đầu và ngày càng lớn mạnh. Hàng ngàn người đã tìm đến Phòng công lý và hòa bình của Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Đồng, Sài Gòn. Những món quà được trao đi, những bữa cơm thân tình chia sẻ và những niềm vui hiếm hoi sau hàng chục năm, ngày miền Nam Việt Nam được “giải phóng”. Nhưng điều lớn lao hơn là những con người từ lịch sử của một cuộc chiến tranh gặp nhau, thanh thản vì thấy mình được trả lại phẩm giá, được sống với sự thật và danh dự.
Trong cuộc trò chuyện với linh mục Phạm Trung Thành vào cuối năm 2018, có lúc ông ngừng lại một chút vì điện thoại, rồi sau đó quay sang cười lớn “an ninh nào đó cảnh báo rằng sân nhà thờ treo cờ hoàng kỳ, nhưng đâu có, chỉ là những băng rôn có mai vàng mừng Tết thôi”.  Gương mặt ông lúc nào cũng vậy, cười vui và thanh thản với mọi thứ ập đến.
Và ngay trong phần trả lời về những điều xấu nhất có thể đến, ông vẫn luôn xen kẻ bằng nụ cười hiền lành của mình. An nhiên.


------------------

Đây đã là năm thứ 6 của chương trình Tri ân TPB-VNCH “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, đến năm nay thì chương trình đã có những điều gì đáng lưu ý, thưa Cha?
Lm Phạm Trung Thành: Mỗi năm, chi phí cho hoạt động này mỗi năm lại tăng. Thí dụ năm 2106 là 21 tỷ, đến năm 2017 đã là 26 tỷ. Đến hôm nay, vừa rồi chúng tôi tổng kết là 28 tỷ. Con số tăng nói lên một điều là người đến tham gia mỗi ngày một nhiều. Việc này đồng nghĩa với việc những người góp sức thực hiện chương trình này cùng chúng tôi cũng đã biết đến chương trình nhiều hơn để tiếp cận.

Chỉ là những hoạt động mang tính từ thiện, nhưng theo Cha, vì sao nhà cầm quyền lại tìm nhiều cách, hết lần này đến lần khác ngăn cản chương trình TPB-VNCH, thậm chí nối kết với các tỉnh xa để ngăn chận?
Lm Phạm Trung Thành: Phải nói là nhà nước này không tiết kiệm một lực lượng nào, một ảnh hưởng nào, sức mạnh nào… để can thiệp điều họ không thích. Tôi rút ra được điều này từ việc sống 44 năm dưới chế độ cộng sản. Họ không muốn một tập hợp nào, một thành phần nào lớn lên, mạnh lên mà không thuộc hệ thống của họ. Bất cứ điều gì tập hợp, phải thuộc về họ như Đoàn thanh niên của họ, Hội phụ nữ của họ, Hội luật sư của họ…
Nhưng phải nói là cái gì hiện nay mà đụng đến chế độ VNCH là họ rất sợ. (cười) Cho dù đó là những ông đã què cụt hay đui mù, già yếu gì đó thì họ cũng rất sợ.
Nhưng cũng không thể phủ nhận là chính quyền rất sợ những hoạt động của tôn giáo nói chung, đặc biệt lúc này là giới Công giáo. Một phần thì người theo đạo đã nhiều, và bên cạnh đó còn có phần là họ thấy mình không đủ sức kiểm soát được đám đông này.
Trực diện mà nói thì riêng nhà Dòng chúng tôi cũng bị coi là có “vấn đề” với chính quyền do chúng tôi luôn lên tiếng trước bất công, luôn suy nghĩ độc lập… Với những điều nói trên, họ ra sức đánh phá nhưng nhiều năm qua, với nhiều hình thức, nhiều cách… họ đã không thành công trong việc ngăn cản. Nhưng dù vậy, công việc chăm sóc các quý ông TPB-VNCH ngày càng rộng, ngày càng sâu hơn.
Chúng tôi được kể lại nhiều chuyện mà họ ngăn cản. Tệ nhất là họ chọn tấn công từ phía các quý ông từ chính quyền địa phương nơi các quý ông cư ngụ. Nhưng càng ngày càng không thành công do nhiều ông đã thoát ra được nỗi sợ hãi thường ngày để ghi danh và tham gia chương trình này.

Gần đây râm ran tin đồn là nhà cầm quyền ở Sài Gòn đã rất khó chịu, muốn chấm dứt các hoạt động TPB-VNCH tại Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Thậm chí có tin họ là sẽ tìm cách cho chương trình ngừng hoạt động trong năm 2019 này, theo Cha nghĩ, mọi thứ sẽ còn được tiếp tục bình yên không, trong năm nay?
Lm Phạm Trung Thành: Khi nãy anh nói một ý về hoạt động từ thiện của chúng tôi. Nhưng tôi xin phép được nói thêm đôi chút về chuyện này. Với tư cách là linh mục, và là linh mục Dòng Chúa Cứu Thế chúng tôi không coi công việc chúng tôi đang làm là chuyện từ thiện.
Nghĩa là, với chúng tôi từ thiện là chia sẻ, nâng đỡ về vật chất cho những người kém may mắn nhưng hiện tại, chúng tôi coi đây là sứ mạng của nhà Dòng, của anh em chúng tôi trong việc đi nói lên sự thật, nói lên lẽ phải và trả lại công bằng cho những người bị tước đoạt. Chúng tôi không đơn thuần gây quỹ, chi tiền, giúp cư trú… Những việc đó chỉ là một phần thôi, vì chúng tôi không phải là một tổ chức hoạt động từ thiện, chúng tôi làm vì sứ mạng công bố một sự thật. Chúng tôi phải tiếp tục, phải làm theo sức cúa mình.
Sự thật là những con người đó không có tội. Sự thật là những người đó không “ngụy” như lời tuyên truyền. Lúc này là lúc cần phải trả lại sự công bằng cho họ. Hơn nữa là phải cám ơn họ, tri ân họ, vì họ đã hy sinh một phần thân thể cùng tuổi thanh xuân của họ cho sự bình an của Miền Nam Việt Nam.

Có vẻ như các Cha đang rất cô đơn trong xã hội này, dù chỉ khởi đi bằng lòng yêu thương. Hiện tình đất nước cho thấy những gì làm trái ý nhà nước độc tài, thường đem lại những kết quả rất xấu. Và liệu khi điều xấu nhất đến, thưa Cha, mọi người đã chuẩn bị gì cho bối cảnh đó?
Lm Phạm Trung Thành: Chúng tôi luôn luôn sẳn lòng đối diện với mọi sự khó khăn. Vì đó cũng là điều căn bản trong sự dấn thân mà chúng tôi đã chọn. Trong cuộc đời của chúng tôi, Chúa chưa bao giờ hứa hẹn cho chúng tôi sự vinh quang của trần gian này, nhưng Chúa lại chỉ rõ nơi đến của thập gía và nỗi khổ đau. Thậm chí, lúc này Chúa hứa hẹn những khung cửa hẹp, những sự bắt bớ những không phải là con đường thênh thang dễ bước.
Nếu không dám chọn đối diện, chúng tôi đã không chọn làm linh mục, không chọn Tin mừng để đi.
Điều quan trọng mà tôi đã thưa chuyện với anh, là chúng tôi đi để công bố một sự thật, lấy lại sự công bằng cho những con người đã bị tước đoạt. Chúng tôi luôn tin rằng nếu đó là việc của Chúa thì không ai có thể phá được. Còn nếu đó không phải là việc của Chúa, tức nó sẽ bị tiêu diệt. Tôi vừa mới nói với anh em cộng tác viên của chương trình TPB-VNCH là chúng ta không cần lo gì cả khi phụng sự ý Chúa. Nếu đây là điều mà chúng ta tạo dựng để tìm tên tuổi hay quyền lợi cho riêng chúng ta – thì tự chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn tin rằng mình sẽ đối diện với khó khăn nhưng sẳn lòng chấp nhận và tin, và hy vọng.
Nếu Chúa đóng cánh cửa này, thì ắt sẽ mở một cánh cửa khác. Những gì đã diễn ra trong những năm qua, đều chứng minh rõ như vậy. 

Wednesday, March 13, 2019

Chương trình Tri ân TPB-VNCH: Bằng yêu thương, họ bước qua nguy nan






Vào mùng 10 tháng 1 vừa rồi, chương trình Tri ân Thương phế binh – Việt Nam Cộng Hòa (TPB-VNCH) lại tiếp nhận thêm 200 quý ông TPB mới ghi danh, nâng tổng số trong danh sách yểm trợ và chăm sóc sức khỏe hàng năm cho các ông, lên đến 6575 người.

Nhiều năm liền, công việc tìm kiếm và giúp đỡ cho hàng ngàn quý ông TPB-VNCH như vậy, từ Quảng Trị vào Mũi Cà Mau, đã chiếm trọn thời gian và tâm sức của các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Đồng, Sài Gòn. Nhìn các cuộc gặp mặt nhận quà, vui văn nghệ… của các ông, hầu hết là trên 60 với thân thể yếu đuối, bệnh tật, rất dễ tưởng lầm là sự chia sẻ yêu thương mang màu sắc từ thiện như vậy là các sinh hoạt đơn giản tại Việt Nam. Thế nhưng thực tế không phải vậy.

Trong một lần tổng kết vào ngày 11 tháng 3, năm 2019, linh mục Lê Ngọc Thanh có nói đến khoảng 800 ông hiện nay vẫn còn chưa nhận được quà. Trong các lý do nêu ra, linh mục Lê Ngọc Thanh liệt kê về chuyện đường xá cách trở, thiếu thông tin, khó khăn liên lạc… nhưng bên cạnh đó, cũng có những ông sau khi ghi danh tham gia chương trình Tri ân, khi quay về nhà tại những miền quê hẻo lánh, vẫn bị công an khu vực đến hạch hỏi, thậm chí gây khó dễ trong đời sống thường nhật. Chính vì vậy, có những người đã buộc lòng im lặng từ bỏ, không dám nối lại với chương trình.

Tháng 12 năm 2018, trong lần trò chuyện với một quý ông, từng là địa phương quân ở Vĩnh Long đến tham dự chương trình ở Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, ông kể rằng nơi ông ở có 3 người là TPB-VNCH, nhưng chỉ có ông là dám đến tham dự. Còn 2 người kia dù đã ghi danh như rồi bỏ, vì công an đến nhà làm việc, và nhắc rằng “không được tham gia các chương trình của nhà thờ tổ chức”. Người TPB-VNCH kể câu chuyện này, nói rằng ông đi từ 4g sáng đến Sài Gòn, mang theo bao nylon đựng quần áo để thay khi vào chương trình, rồi sau đó trở về lúc 3g chiều, ăn mặc như đang ở nhà, nhằm tránh không để ai tò mò hỏi han gì.

Hành trình nối lại sợi dây yêu thương giữa con người và con người qua chương trình Tri Ân TPB-VNCH, thật không dễ trong một chế độ mà mọi cuộc dò xét, thẩm vấn, tra tấn… liên quan đến các vấn đề xã hội đều luôn có những lời mớm cung đầy ác ý vào giới Công giáo.

Tháng 6 năm 2018, khi các cuộc biểu tình chống lại dự luật Đặc Khu và An ninh mạng diễn ra ở cả nước, đặc biệt bùng phát ở Sài Gòn, thì các cuộc trấn áp tàn khốc nhất cũng diễn ra. Tại công viên Tao Đàn, công an Thành phố HCM đã dựng nên một khu tra tấn hàng trăm người không khác gì bọn khủng bố Trung Đông. Chị Tuyết Lê, một cư dân ở ngoại ô vào trung tâm để biểu tình bị bắt về đây và bị đánh đến gãy răng hộc máu miệng. Những công an viên trẻ và khỏe mạnh, khi bắt đầu cuộc thẩm vấn đã mang găng tay bọc sắt màu xanh dương, đấm vào mặt chị và hỏi rằng “có phải linh mục xúi giục đi biểu tình không?”. Khi chị phản ứng, một công an khác mang vào chân đôi giày nặng, bọc sắt để tra tấn, kiểu của Bắc Triều Tiên, đá vào sườn của chị, và hỏi “mày có phải là đạo Công giáo không?”

Đỉnh điểm của cuộc tra tấn đó là hai vợ chồng người Công giáo khác, anh Trịnh Toàn và chị Nguyễn Thanh Loan bị đánh đến chấn thương sọ não. Khi thấy anh Toàn hộc máu và ngất đi, vài ba an ninh thường phục lôi anh Toàn lên xe taxi chở ra bệnh viện cấp cứu Sài Gòn vứt ở đó. Khi nhân viên y tá yêu cầu yêu cầu làm giấy tờ để chụp CT đầu xem vết thương, những người an ninh này đã im lặng bỏ đi ra ngoài. Đến chiều hôm đó, chị Loan, vợ của anh Toàn mới liên lạc được người thân để mượn tiền chữa cho chồng, vì giấy tờ và điện thoại của 2 người đều bị công an cướp đi. Câu hỏi quen thuộc “Có phải đi biểu tình theo lời linh mục” và “mày có phải là đạo Công giáo không?” cũng được áp dụng với cả hai anh chị.

Phía Nhà nước đã làm mọi thứ để cản trở những chiếc xe lăn hay những ông cụ được dìu vào tham gia các chương trình Tri Ân TPB-VNCH nơi nhà thờ Công giáo. Từ nhiều đời lãnh đạo ở Sài Gòn, với những gương mặt lãnh đạo được báo chí nhà nước ca ngợi là “hiểu biết”, “có học”, “có lòng”… như ông Đinh La Thăng hay đến ông Nguyễn Thiện Nhân, mọi sự sách nhiễu với những con người tàn tật chỉ thay đổi từ hình thức này sang hình thức khác mà thôi. Linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành từ nhà thờ Kỳ Đồng, đã rất hài hước, nhưng cũng rất mỉa mai khi bình luận rằng “Sống hơn 44 năm trong chế độ Cộng sản, tôi học được một điều rằng họ không tiết kiệm một lực lượng hay một nguồn lực nào để tấn công vào các cuộc tập hợp, mà không cần biết rằng đó chỉ là tập hợp vì yêu thương”.

Đã có nhiều thắc mắc được đặt ra về việc vì sao Nhà nước hiện nay lại khó chịu với những người già yếu tàn tật như vậy, cũng như rất chịu khó hành động với chương trình Tri Ân TPB-VNCH mà không màng gì đến thể diện hay tư cách của một hệ thống cầm quyền. Nhưng câu trả lời, dường như chỉ có một. Đó là chính quyền hiện tại sợ hãi bất kỳ bóng dáng hay tinh thần của một chế độ tự do mà họ đã tiến công bất ngờ và nắm quyền từ năm 1975 đến nay. Việc vây hãm nghĩa trang quân đội Biên Hòa, ngăn cản các lễ giỗ của các cụ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, rượt bắt bất kỳ ai mang trang phục có màu sắc hoàng kỳ… Đó là câu trả lời dễ nhận dạng nhất.

Dường như một chiến thắng năm 1975 mà bộ máy tuyên truyền của chế độ hiện nay ca ngợi không tiếc lời, vẫn không giúp cho những nhà lãnh đạo ăn ngon ngủ yên. Vì thế đến những cuộc nối kết yêu thương giữa con người và con người, cũng đã làm họ giật mình giữa đêm như vừa qua ác mộng.