Wednesday, December 23, 2020

Mừng Giáng Sinh từ một người ngoại đạo

Mùa Giáng Sinh năm đại dịch thứ nhất, thật thú vị khi được nghe một tu sĩ Phật giáo kể chuyện ngày Chúa sinh ra. Trong ngôi chùa nhỏ của hòa thượng Thích Thiện Minh, bữa cơm ngày cuối năm, ông kể lại nhiều kỷ niệm thời ngồi tù chung với các linh mục, các tu sĩ của Hòa Hảo, Cao Đài… và cả các sĩ quan của chế độ VNCH tại Xuân Lộc, Đồng Nai.
Hình ảnh cả ngàn người tù chia nhau một không gian chật chội, nhưng đầy yêu thương, như hiện ra trước mắt. Hai nhân vật của tôn giáo lớn là linh mục Trần Đình Thủ (1906-2007) và hòa thượng Thích Đức Nhuận (1924-2002) được mô tả là những thủ lãnh tinh thần của tất cả mọi người, cố gắng xây dựng một nơi hà khắc thành những nơi chia sẻ, an ủi lẫn nhau.
Ngài Thích Thiện Minh kể rằng Giáng sinh hàng năm nơi trại tù ấy, ngài linh mục Trần Đình Thủ luôn tính đủ số các tù nhân trong trại, và thuyết phục cán bộ để cho mọi người được nhận những phần quà và tiền lưu ký (tiền gửi vào trại, để tù nhân có thể mua hàng, thức ăn trong trại) lớn hơn ngày thường, cùng mừng một ngày lễ Giáng Sinh. Đức hy sinh và uy tín của linh mục hàng năm vẫn làm được điều đó, thậm chí khiến các cán bộ cũng đồng ý làm việc nhiều hơn để đạt được yêu cầu của ngài. Theo lời kể, lúc đó mỗi người tù chỉ nhận được 20.000 đồng tiền lưu ký, với chữ ký chấp nhận của cán bộ trại. Mùa Giáng Sinh, linh mục Trần Đình Thủ nhắn ra ngoài vận động, không để sót một ai trong số cả ngàn người tù, nên có đủ phiếu hợp lệ nhận tiền của từng người, các cán bộ trại phải chia nhau ký, mất đến mấy ngày mới đủ số phiếu theo yêu cầu của ngài.
Một miếng bánh, một điếu thuốc… là những món quà quý trong những ngày như vậy. Mỗi tù nhân không phân biệt là ai, đều được nhận cùng với lời chúc hy vọng cho bản thân mình và cho mọi người. Chúa thật sự đã ở cùng anh chị em trong những giờ phút đó. Dĩ nhiên, lễ tôn giáo thì không được nhìn nhận trong trại giam nên khi chúc nhau, mọi người đều nói nhỏ với nhau, mừng Giáng sinh an lành.
Thậm chí có một mùa Giáng Sinh, thấy mọi người phải đi lao động cực nhọc quá, linh mục Trần Đình Thủ từng trực tiếp gặp cán bộ trại, xin rằng nếu phần lao động đó được quy bằng tiền, ông muốn được đại diện cho tất cả tù nhân, tạo quy chế mới để ngày chỉ đi lao động 4 tiếng thôi, còn bao nhiêu thành tiền, mỗi tháng ông sẽ nhờ người đến trại để nộp vào. Dĩ nhiên, điều đó không được ban quản lý trại giam chấp nhận, nhưng lại là một kỷ niệm không thể nào quên đối với những ai đã từng có thời gian ngồi tù với ngài.
Phía Phật giáo cũng vậy, hòa thượng Thích Đức Nhuận cũng cố vận động, chia sẻ cho mọi người vào ngày Phật Đản. Cũng tương tự như cách làm phía Công giáo, ngày lễ này cũng là một ngày mà mọi người cùng được chút khác biệt. Hai vị linh mục và hòa thượng này ở trong tù, với nhau như bạn thân, luôn chia sẻ cách làm và giúp đoàn kết các người tù với nhau.
Quà Phật Đản cũng đặt ở trên đầu chỗ ngủ mọi tù nhân, không phân biệt là ai. Có năm, quà chia chậm, thấy mình chưa có, linh mục Trần Đình Thủ đi qua phía trại giam của hòa thượng Thích Đức Nhuận, cười hỏi “Sao Phật Đản mà tôi chưa được quà?”. Lập tức hòa thượng Thích Đức Nhuận chắp tay xin lỗi – thật sự - nói sơ xuất chậm trễ, rồi tự tay trao quà cho ngài.
Chuyện kể, chỉ để thấy rằng tôn giáo không có biên giới. Nếu sống với kim chỉ nam là tình thương và lòng từ bi, mọi sự khác biệt đều là thứ tầm thường nhất. Sự thân thiết và chia sẻ của hai vị lãnh đạo tôn giáo tại trại giam vô thần, luôn là bài học lớn cho đời sau.
Hòa thượng Thích Thiện Minh, người kể lại câu chuyện cũng là một tù nhân 26 năm, có cơ duyên gặp được cả hai vị linh mục và hòa thượng trong trại Xuân Lộc, Đồng Nai

Câu chuyện Giáng sinh của những năm rất xa được kể lại, cho thấy yêu thương và hòa đồng là điều đã luôn có, nhưng luôn mất đi hay bị thao túng vì chính trị.
Trong cuốn Lasting Happiness in a Changing World do nhà báo Douglas Abrams ghi lại cuộc trò chuyện phi thường của hai người bạn thân là Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 và Tổng Giám Mục Nam Phi Desmond Tutu, cũng cho thấy, khoảng cách và sự chia rẽ do con người tạo ra chỉ có thể cùng những âm mưu và thấp hèn. Cùng một động tác khi cả hai con người vĩ đại này bày tỏ với nhau – đặt tay lên tim – Đức Tổng Giám Mục nói đó là chân thành và yêu thương, còn Đức Đạt Lai Lạt Ma thì nói đó là từ bi, quảng đại.
Rõ là chẳng khác biệt gì, khi mọi người đến với nhau bằng những điều tốt đẹp nhất và tự giải thích nó bằng suy nghĩ tử tế nhất.
Mùa Giáng Sinh năm nay, không thấy nhiều các thầy tu lừng danh lẫn vô danh bên Phật giáo quốc doanh lên tiếng chống đối lễ mừng Chúa sinh ra của người công giáo. Cũng không thấy các công văn chỉ đạo từ ai đó đòi dẹp bỏ những hình ảnh Công giáo trong các trường học trẻ em. Từng năm như vậy trước đây, các ngôn luận đó luôn là loại gai độc làm nhói đau trái tim của tất cả những người tử tế, yêu tự do tôn giáo trên đất nước này.
Chưa hẳn Giáng Sinh năm nay là một giáng sinh thật sự an lành tại Việt Nam, khi vắng bớt những điều như vậy. Vì trước đại hội Đảng, mọi thứ ổn định xã hội là điều tối cần thiết, hơn là thực hiện nhiệm vụ thường ngày của các loại thầy tu, quen hành động báo công như vậy.
Cuộc sống vẫn mở ra với hướng đi tự nhiên, chọn lựa thanh bình cho mình và cho người. Tất cả từ sâu thẳm trái tim của mình. Thật đáng xấu hổ, nếu như cuộc sống ngoài đời lại thiếu tình thương và sự hòa đồng tôn giáo, thua cả những Giáng sinh khốn khó trong các nhà tù.

 

------

·     • Linh mục Trần Đình Thủ (1906-2007) là người sáng lập ra Dòng Đồng Công tại Việt Nam từ năm 1953. Trong một thời hai thập niên 60 và 70, sự phát triển mạnh mẽ của dòng tu này khiến những người chứng kiến phải khâm phục. Hoạt động của Dòng Đồng Công Là tập trung vào việc phát triển giới trẻ và mở rộng tất cả những hoạt động hỗ trợ cho giáo dục cho thanh thiếu niên nghèo. Tháng 6/1976, linh mục Đa Minh Maria Trần Đình Thủ bị chính quyền mới bắt giam lần đầu (giam trong một năm) cùng với 52 người của nhà Dòng tại Di Linh, mà lý do cho đến hôm nay vẫn mù mờ. Theo nhiều người kể lại, phía công an bắt giam nói khám phá tài liệu dạy giáo lý cho tín hữu của Dòng Đồng công do Linh mục Đa Minh Maria Trần Đình Thủ soạn thảo, mang tính chất tuyên truyền phản động chống Đảng và nhà nước XHCNVN. Thật khó giải thích, vì các tài liệu giáo lý này dạy rằng phải vâng lời và tín thác cho Chúa chứ không vì điều gì khác. Án tù (bắt lần hai, từ năm 1987) của linh mục Trần Đình Thủ là 20 năm, nhưng ngài chỉ ở có 6 năm thì được trả tự do, do sự vận động của nhiều nơi.

·     • Hòa thượng Thích Đức Nhuận (1924-2002) là một bậc trí giả, ngài vừa là giáo sư triết học Phương Đông của đại học Vạn Hạnh, vừa là chủ bút của của nguyệt san Vạn Hạnh và Hóa Đạo, cũng là chánh thư ký viện Tăng Thống Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (từ 1967 đến 1973). Năm 1985, ngài bị chính quyền mới kết án âm mưu, tổ chức chống cách mạng, do đó có cùng thời gian được gặp gỡ và làm bạn với linh mục Trần Đình Thủ. Ngài ngồi tù 9 năm, và về chùa Giác Minh tĩnh tu vào năm 1993. Từ năm 1977, hòa thượng Thích Đức Nhuận đã bày tỏ chính kiến và sự khác biệt với chính quyền mới. Nhiều bài phân tích và tuyên bố của ngài đã gây xôn xao trong lòng người miền Nam lúc đó. Bản cáo trạng phát đi năm 1977 của ngài là một ví dụ. Trong đó, ngài viết “Nạn nước không từ ngoài tới, mà bi thảm thay, lại do chính con người Việt Nam, mất linh hồn, chối bỏ dân tộc, từ chối giá trị làm người, cam tâm làm tôi tớ cho ngoại bang... xô đẩy đồng bào đất nước ta vào cuộc chiến tranh lửa đạn, một cuộc chiến tranh tàn bạo, nhơ bẩn, phi lý, chỉ nhằm phục vụ ý thức hệ và quyền lợi của khối Quốc tế Vô Sản… Hiện đồng bào mọi giới đang phải nép mình sống cuộc đời tù ngục, mất hết tự do kể cả thứ tự do tối thiểu cần có dành cho con người là quyền cư trú, đi lại, làm ăn sinh sống cũng đã bị nhà nước ngụy quyền cộng sản hạn chế, ngăn cấm.” (trích)

-------

Tuesday, December 22, 2020

Chuyện nhỏ, tháng 12

 

Tháng 12, làm nhớ thật nhiều điều, nhớ cả những người đã mất.

Tôi chứng kiến tháng 12 lần lượt đưa hai người mình yêu mến về với trời xanh: Nhạc sĩ Việt Dzũng - một người anh với nhiều kỷ niệm khó quên, và Duy Quang, giọng ca đã dẫn dắt tuổi hoa niên của tôi dạo chơi trong khu vườn thơ mộng, và đến với âm nhạc Phạm Duy từ thuở nhỏ.

Ca sĩ Duy Quang mất 19-12 năm 2012, lúc 62 tuổi. Còn nhạc sĩ Việt Dzũng thì mất 20-12, năm 2013, lúc 55 tuổi. Cả hai chuyến du hành định mệnh đó, đều làm tôi ngẩn ngơ.

Với Duy Quang, là những bài hát đầu tiên gây choáng váng về âm nhạc lẫn người trình bày. Đó là thuở non dại của cuối thập niên 70, của thằng con nít đang thiếu niềm vui, vô tình bấm vào cái máy cassette của bà chị trong nhà. Giọng hát như kẹo mạch nha của Duy Quang làm bài Đốt lá trên sân (Bé Ca 6) của Phạm Duy, lẫn lời bài hát như loại ma túy LSD không gian, có khả năng làm bàng hoàng đến nửa ngày sau.

Nếu bé yêu anh, anh mời đến ở
Dưới mái thô sơ, nơi vườn xanh cỏ
Ngày thì chia nhau sách đọc, mới cũ
Để chiều còn ra tưới vườn, quét lá

Nếu gọi đó là ngôn tình, thì đó là thể loại ngôn tình chân nguyên nhất, bùa ngải nhất trong trí nhớ, đủ sức để mấy chục năm sau, thằng con nít đó nghe thấy những loại ngôn tình đổ về từ thượng nguồn Trung Hoa chỉ là đồ dỏm. Thứ ma túy LSD đó, nó vẫn mang theo, êm dịu trong từng nhịp thở.

Khi nhạc sĩ Phạm Duy về ở Việt Nam, trong căn nhà ở quận 11, tôi đến thăm và hỏi ông rằng, nghe nhạc Việt Nam hiện nay, ông nghĩ rằng tương lai sẽ còn đất cho kiểu âm nhạc luôn cân nhắc từng câu, chữ, ôm nặng những khối tình như vậy không? Ông cười như bỉu môi, nói chắc khó lắm. "Nhạc mới sẽ đi về hướng nghe trên da, chứ không nghe trong tim. Cái gì làm người trẻ rợn da gà, dựng lông tay và điện tử hóa sẽ chiếm lấy họ nhanh nhất. Nhưng nhạc với ca từ đẹp vẫn sẽ sống theo cách của nó".

"Sống", là một từ khó cảm nhận hết được, lúc đó. Khi ông mất đi, ca sĩ Duy Quang mất đi, tôi mở lại các bài hát cũ của những người không còn hiện diện trên thế gian, mới nhận đủ các ý nghĩa của chữ "sống", bao gồm cả việc tôi sẽ "sống" cùng với những điều ấy.

Quét lá trên sân, vun thành đống nhỏ
Bé sẽ cho anh cái quyền nhóm lửa
Mặt trời đã tan, giữa chiều êm gió
Một ngày ra đi với một chiều mơ



Còn với Việt Dzũng, thì là một câu chuyện khác.

Tôi may mắn được liên tục làm việc, lang thang xuyên bang, hội hè cùng nhạc sĩ Việt Dzũng trong một thời gian dài. Cứ ngồi gần anh, trò chuyện suy tư hay tán gẫu, anh luôn là nguồn năng lượng đổ vào người, khiến da thịt cứ ngứa ngáy, cứ muốn làm điều gì đó, vì sợ thời gian nham hiểm sẽ cướp mất cảm hứng của mình.

Việt Dzũng làm việc bằng ba người cộng lại. Có lúc phải bàn việc với anh, thấy anh đang nói chuyện A, nhưng tai thì vẫn nghe tin từ đài Mỹ, dịch trực tiếp để gửi đi, lại thấy nhắn chuyện B gì đó với ai đang có việc với anh. Nhiều khi nhìn anh bần thần : "Sao anh siêu vậy?", Việt Dzũng cười hề hề :"Đời ép anh mày phải siêu!". Quay về phòng thu, mấy tiếng sau lại thấy anh chống nạng đi vào, "Nghe thử bài anh mới viết nha". Lại là một bài nhạc mới, theo yêu cầu của nơi nào đó.

Những ngày trước khi mất, giọng anh khàn đục và mất hơi.  Ghi âm cho anh hát mà cảm thấy buồn buồn, nhưng lại không dám nói. Là một người Công giáo nhưng rất ngang tàng, Việt Dzũng đột nhiên chuyển sang viết và hát nhiều bài về Chúa và con đường đi của đời người sẽ đến, bằng giọng rất ngoan, suy nghĩ cũng đằm thắm hơn.

Anh kể rằng bác sĩ muốn thay một số mạch máu trong tim anh, vì đã hư. Nếu như người thường thì sẽ lấy những mạch máu dưới đùi hay bắp chân đưa lên. Khổ nỗi chân anh lại không đủ khỏe nên không thể tìm được những mạch máu đủ tốt thay thế. Bác sĩ đề nghị thay bằng một số mạch máu lấy từ tim heo. Anh thoái thác, nói để về suy nghĩ đã. Về quán cafe, anh lại cười khùng khục :"Ghê quá, em thử nghĩ tự nhiên mình có trái tim chơi đồ của heo, được không?". Tôi thúc "được", chỉ mong anh đồng ý, chỉ mong anh khỏe với cả đống ý tưởng anh luôn kể với tôi, bao gồm ước mơ một ngày Việt Nam thay đổi, anh sẽ về mở một đài phát thanh tại Saigon.

Trái tim có mạch máu heo? Có gì đâu đáng sợ. Trong đời mình, tôi đã thấy đủ những người sinh ra đã có sẳn trái tim như heo thật sự, kể cả đàn em, bạn bè lẫn quan chức chính quyền. Nhưng với Việt Dzũng, chắc chắn phần heo không thể lấn được phần người của anh.

Ấy vậy mà không kịp. Buổi sáng tháng 12 năm đó, nghe tin anh mất như chuyện đùa. Anh lên cơn đau tim ngay tại bàn làm việc, đưa đến bệnh viện thì đã muộn.

Sau đám tang của anh, tôi quay về Việt Nam, tôi như bị tuột hết năng lượng. Rồi năm sau, nghe tin tên anh được chính quyền địa phương đặt cho một đoạn đường trên đại lộ Beach, là "Việt Dzũng Human Rights Memorial Highway". Anh ngầu thiệt!

Chắc ít người biết câu chuyện tôi vừa kể, về một người đã sống và chết, kiêu hãnh với cuộc đời tự do, và không muốn mang trong mình trái tim thú vật.

 

Saturday, December 19, 2020

Làm người yêu nước

 


Lần đến gặp nhà nghiên cứu Phan Thuận An ở Huế, ông giới thiệu cho thấy một văn bản thú vị có từ thời vua Bảo Đại - rất quan trọng - để chứng minh rằng Hoàng Sa thuộc về Việt Nam.

 Bản gốc tấu chương năm 1939, của học giả Phạm Quỳnh, bấy giờ có chức Tổng lý đại thần, gửi cho vua Bảo Đại để xin ủy lạo cho binh sĩ đồn trú ở Hoàng Sa, nơi thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam. Vào thời ấy việc di chuyển ra Hoàng Sa bằng thuyền, đồn trú luân phiên của binh sĩ rất khó khăn. Không chỉ là trấn giữ phần đảo chủ quyền, mà đôi khi phải đánh nhau với hải tặc và cứu hộ cho ngư dân Việt. Bắc Kinh thì luôn đưa ra những lý luận cho thấy rằng Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc, lấn át và thách thức Việt Nam về các chứng cứ chủ quyền. Văn bản quý của nhà nghiên cứu Phan Thuận An đưa ra là một trong những chứng cứ mạnh mẽ và dứt khoát về việc Hoàng Sa thuộc người Việt Nam cho đến tận thời kỳ vương triều cuối cùng. Với tấm lòng yêu nước, nhà nghiên cứu Phan Thuận An gửi tặng bản gốc tấu chương cho Hà Nội, để nhằm góp vào những cứ liệu bảo vệ chủ quyền tổ quốc, theo lời kêu gọi lúc ấy. Ông chụp lại để làm bằng chứng, và kỷ niệm, treo ngay trong phòng khách nhà mình. Nhưng không hiểu vì sao chưa bao giờ thấy Hà Nội chính thức sử dụng tư liệu này trong việc tranh cãi về chủ quyền Hoàng Sa với Trung Quốc, và cũng không thấy chia sẻ bản văn này với bất kỳ nhóm nghiên cứu hay nhà nghiên cứu nào về biển Đông trong việc chống lại các luận điệu xâm lược hàm hồ của Trung Quốc. Khi hỏi ông rằng, liệu ông có biết giờ này văn bản đó ở đâu không? Nhà nghiên cứu cả đời gắn với Huế cười buồn, "chỗ mô thì chỉ có họ biết thôi". Ông nói rằng ông chỉ làm hết trách nhiệm của một công dân với tổ quốc - đặc biệt là một công dân ý thức mình là người Việt Nam - chứ không vì bất k chuyện công danh hay lý tưởng chủ nghĩa gì cả.
Khác với những kẻ sau năm 1975 được tự tung tự tác chiếm đoạt các tài liệu quý của nhà Nguyễn, cũng như từ văn khố lưu trữ của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa, rồi tự xưng mình là Huế học hay là nghiên cứu cách mạng gì đó, nhà nghiên cứu Phan Thuận An tự mình đã viết lên hàng trăm công trình nghiên cứu, chọn sống một đời kể lại quá khứ có thật, và khiêm tốn. Theo lời của nhà nghiên cứu Phan Thuận An thì sau tấu chương của Phạm Quỳnh, các binh sĩ được Hoàng đế Bảo Đại thưởng hậu.
Cũng như hậu sinh Phan Thuận An, học giả Phạm Quỳnh cũng đã làm tất cả mọi thứ trong đời mình với một trách nhiệm công dân, chứ không chỉ là một quan chức dâng tấu chương. Thế nhưng tâm huyết của ông với đất nước và văn hóa Việt Nam được đổi lại bằng án tử hình bởi những người cộng sản, hay nói chính xác hơn là từ Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Thừa Thiên, vào năm 1945. Trong tạp chí Xưa và Nay số 269 (tháng 10/2006), do người chịu trách nhiệm là nhà sử học Dương Trung Quốc, cũng ghi chép lại việc tử hình ông bởi cách mạng. Toàn văn kết án của Ủy ban Khởi nghĩa Nguyễn Tri Phương kính gửi Tòa án quân sự Thuận Hóa ngày 9/12/1945, ghi rằng:
"Phạm Quỳnh, một tay cộng sự rất đắc lực của giặc Pháp trong việc củng cố địa vị của Pháp ở Đông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mãi quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc dân. Mặc dầu chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9-3-1945, nhiều triệu chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta". (trích) Trong văn bản này, còn hai người nữa bị kết án tử hình nữa là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân, thuộc gia đình của tổng thống đệ nhất VNCH Ngô Đình Diệm. Được biết, vừa khởi nghĩa chiếm chính quyền, Ủy ban Cách mạng vừa cho người đến bắt ngay cả ba ông, vào ngày 23-8-1945. Xưa và Nay cũng có trích lời của nhà sử học Cộng sản Trần Huy Liệu rằng việc kết án và giết hại Phạm Quỳnh là điều sai lầm và hoàn toàn vô lý. Kết luận của bài nghiên cứu lịch sử rằng việc giết người đó, vô cùng "lạc lõng" trong thời đại cách mạng đang muốn chinh phục lòng người của ông Hồ Chí Minh. Tiếc thay sự thật thì vẫn còn đó, nhưng những câu chuyện để bảo vệ sự thật như ở Xưa và Nay, thì cũng hết sức lạc lõng trong một thời đại thiếu ánh sáng. Đọc chuyện xưa, mà sợ. Những nỗ lực gây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam với tư cách công dân yêu nước của học giả Phạm Quỳnh chỉ được đổi lại bằng cái chết, và sự thật bị bóp méo. Nghe chuyện nay, rồi buồn. Tư liệu nghiên cứu công phu với tư cách công dân yêu nước của nhà nghiên cứu Phan Thuận An cũng được đổi lại bằng sự thờ ơ, và lãng quên. Và cũng có rất nhiều công dân yêu nước khác trên đất nước này đã làm tất cả theo bổn phận và lương tâm, nhưng rồi chỉ được đổi lại bằng sự đe dọa, sách nhiễu hay tù đày như Trần Huỳnh Duy Thức Nguyễn Văn Hóa, Hoàng Bình, Trần Đức Thạch... và rất nhiều người khác nữa, không thể kể hết. Ngẫm lại, sống với một lương tâm công dân yêu nước, thật khó biết bao.



Sunday, November 29, 2020

Về miền Tây


Lúc mới gặp, nó nhìn nhìn một lúc rồi hỏi "Chú ở Sài Gòn tới hả?". Người miền Nam với nhau nhưng nhìn vô một cái áo, nhìn cái túi xách... là dân trong vùng có thể phân biệt được liền, ai ở đâu hay ai là người mới tới, nhất là cái kiểu mang ba lô đi lang thang, ngó ngang ngó ngửa như tôi.

Thiệt tình là mới gặp, nhìn nó cũng hơi ớn. Ngồi kế bên, nó cứ im im,  nhịp chân trong cái quán nước từ sáng đến chiều chỉ có 1,2 người khách. Thỉnh thoảng nó liếc mình, loại quan sát mà lục hết những bài học về body language không hề có chương nào đoán được nó nghĩ gì. 

Mà hơn nữa, nhìn qua thì thấy mình mẩy nó thì xâm nát hết, từ đầu cho tới chân. Ớn chứ sao không.

Dòm vô mấy cái hình xâm đủ thứ của nó, thấy có cái quen quen, mới cười cười hỏi nó "Cái này là hình gì vậy". Nó không thèm nhìn mình, không cười, nói gọn lỏn "Thì là hình tòa án ở Sài Gòn". Trời đất, nghe trả lời mà tản hồn. Thằng này chắc phải vào tù ra khám mới xâm hình kỷ niệm như vậy chớ gì nữa.

Vậy mà lát nữa, mọi suy nghĩ về nó trong tôi thay đổi hoàn toàn. Nó như một bài học về người miền Tây, mà cứ tới gần, chạm vào mới biết.

Chiều đó, rủ nó đi ăn hủ tíu, mới ngạc nhiên khi nghe nó từ chối "Con ăn chay mà chú". Hóa ra nó ăn chay mấy tháng nay, để vái cho bà ngoại mau lành bệnh. Nó nói khi nào ngoại còn bệnh là nó còn ăn chay để cầu cho ngoại. "Nhiều lúc ngán quá, nhưng không dám bỏ chú, bởi vì lỡ vái cho ngoại rồi", nó nhe răng cười. Lúc đó mới thấy thật ra bộ dạng chằng chịt của nó chỉ che con người thiệt, lành như đất.

"Vậy chú với mày ăn chay, kể như cho chú vái ké mày, cho ngoại mau lành", tôi nói vậy. Thằng nhỏ giương mắt nhìn rồi lại cười "Được không chú? Ăn chay không có ngon như ăn mặn đâu nghe". Đi một vòng chợ, xách ba bốn món chay về ăn cơm. "Giống nhà hàng quá chừng đó chú. Mấy tháng nay con ăn chay toàn mì gói không hà, chú chơi sang thiệt". Thì vậy, hỏi sao nó không nhắc mình là ăn chay ngán lắm. 3,4 món đó chưa hết trăm ngàn, không bằng ít tiền lẻ người ta bo ở quán nhậu thành phố.

Tới lúc có vẻ quen biết thêm chút đỉnh, tôi bèn hỏi vì sao mày xâm hình tòa án. Nó giương mắt nhìn, ngạc nhiên "Ủa đẹp mà, cái đó là hình Sài Gòn cổ mà chú?" -  Vậy thì đâu có tù tội gì. Còn chuyện xâm hết mình mẩy là do có cuộc thi tatoo. Một ông Tây hợp tác với nó, xâm nát mình thằng nhỏ để thi, rồi đoạt giải, chỉ vỗ vai nó "thanh kiu" sau đó biến mất với tiền thưởng. Hỏi nó có đi kiếm ông Tây đó đòi tiền không, nó cười "Dạ thôi, có cái hình Sài Gòn cổ là con vui rồi. Chắc ông Tây đó cần tiền mới vậy".

"Chú thấy mày cũng đâu giàu có gì. Chớ mày phục vụ cho quán nước này lương lậu ra sao?" - "Lương gì đâu chú, con học tới lớp 3 hà, giờ đi phụ việc cho con nhiêu thì con lấy nhiêu thôi". Cũng may mà chủ quán thương nó. Từ hồi về làm ở đây có vài tháng mà nó mập lù, quần áo chật hết.

Cho tới khi tôi leo lên xe đò đi tiếp, thằng nhỏ cứ ngồi kề bên. Nó cứ im im, nhịp nhịp chân nhìn ra lộ. Nó là người ở lại. Chắc nó có rất nhiều điều để kể nhưng lại không biết nói gì. Cái im im đó như đời sống của miền Tây Việt Nam. Nơi có hàng ngàn những con lộ như vậy xuyên qua ruộng đồng và ẩn tình xanh mướt. Miền Tây bao la hôm nay vẫn im nhìn cuộc đời đi qua như vậy, cùng văng vẳng tiếng nhạc sến hay cải lương từ đâu đó, như một loại vỏ bọc thanh thản, để giấu kín trong lòng mình những tâm tư bất tận.

BÀI GIÁO KHOA CŨ

BÀI GIÁO KHOA CŨ


Bài học cũ, giản đơn nhưng dạy trẻ con biết hoài niệm, biết nghĩ về những gì đã có. Đọc lại một trang giấy nhỏ, đã cũ, đã bị phế bỏ, mà nghĩ rằng người viết chẳng có chức phận hay quyền hành gì, nhưng họ hành động như một người Việt buộc phải cẩn trọng trách nhiệm với trăm năm sau. Chỉ tự tâm niệm mà cẩn trọng.

Không cần phải có một tôn giáo hay lý tưởng vĩ đại nào, chỉ cần một tấm lòng học làm người, biết thương nhớ mẹ cha, đã là một công dân tử tế trên nước Việt.

"Con không cần phải khấn, vì hồn mẹ lúc nào cũng phảng phất bên con". Thật ra, câu văn chỉ là một lời an ủi. Nhưng cảm động đến có thể rơi nước mắt. Lời dạy còn âm thầm nhắc rằng khi hành động bất kỳ điều gì, đều có một lương tâm truyền đời dõi theo và nhắc nhở. Nếu không có mẹ cha và người đi trước, thế hệ hôm nay dễ dàng trở thành hành động, suy nghĩ vô loài.

Chân thành với giáo dục không khó, nhưng cố gắng tạo dáng vẻ cho giống như giáo dục thì rất khó. Nhiều năm cải cách, gắng gượng thay đổi sách giáo khoa cho thấy một tương lai dân tộc rất mơ hồ: một hệ thống vật vã, gượng gạo tạo ra cái mới - rất giả tạo - bởi mang quá nhiều mặc cảm với cái cũ đã hoàn chỉnh từ một thể chế khác.

Sẽ chẳng ngạc nhiên, khi hôm nay, mọi thứ giả dối đang lên ngôi: Giả trí thức, giả văn bằng, giả học vị... và cuối cùng là giả làm một người yêu nước.

Saturday, November 28, 2020

Học để làm gì

Câu hỏi đó chắc vẫn vang lên, vô thanh trong suy nghĩ  nhiều người, khi trải qua các chặng cứu trợ hay từ thiện, nơi vô số các em nhỏ hay thanh niên nhọc nhằn với cuộc sống hàng ngày của mình, vật lộn với miếng ăn và tai ương ở miền Trung Việt Nam.

Khi ghé qua hỏi han về gia cảnh, nhiều người đã bối rối thú nhận rằng con cái của họ đã bỏ học từ lớp 4 hay lớp 5. Lý do là để phụ giúp gia đình, hoặc nghỉ học vì đến trường, có chữ thêm, không biết để làm gì.

"Phụ giúp", là kiếm ít củi, trông em, sai vặt... nếu giỏi hơn thì có thể nhận việc ở đâu đó, kiếm được chút tiền cho bữa cơm chiều. 

Con đường dẫn ra các vùng Bắc Trung Bộ xa xôi, được biết chuyện có nơi nhiều em nhỏ xin nhận giỏ đeo gạch đi bằng lối mòn đến nơi đang xây dựng trên cao, dài có khi đến 2-3 cây số, để nhận 10.000 đồng một chuyến. Nhưng kinh khủng hơn, ở Đồng Văn, Hà Giang, có chuyện những em cõng hơn 30kg gạch đi vài cây số, chỉ được 2000 đồng/chuyến. Sức chịu các em như vậy, mỗi ngày đi được 3 chuyến.

Nói chuyện với một bà cụ ở làng Húc, Quảng Trị, bà kể cho biết hầu hết cuộc sống của những người trong vùng đều là tự cung tự cấp. Do đó, trẻ con phải tham gia giúp gia đình là đương nhiên. Việc buộc gia đình phải chu cấp cho mình một chút tiền đi học là một điều quá xa xỉ ở những nơi như vậy.

"Như năm nay bão lụt liên tục thì mình làm sao để sống?" -  bà cụ nói - "thì mình đi mượn gạo để ăn rồi năm sau ráng làm để trả lại". 

Nhưng, không hề có nghĩa là năm sau, họ có thể dư dả và trả được, nên khi những món nợ sống còn như vậy chồng chất, 100 ngàn đồng (khoảng 4 USD) để chi phí tiền học cho một năm trở thành điều quá lớn đối với một đứa bé ở đây.

Vậy nên, mỗi khi có chuyến cứu trợ hay từ thiện nào về, giống như ngày hội. Thức ăn, quần áo là niềm vui, những thứ để được tiếp tục học hành lại càng lớn lao hơn. Có những nơi, trẻ em đi cùng người lớn từ 4-5 giờ sáng, háo hức đến chờ nhận chút quà, mà giá chỉ bằng một bữa nhậu con ở đô thị.

Một gia đình nghèo khó ở Quảng Bình, ở nơi chịu các trận bão lụt vừa rồi, có lúc nước dâng cao đến 4 mét, được mọi người trong vùng giới thiệu, kể rằng đó là một gia cảnh nghèo khó nhất: nhà chỉ 3 mẹ con, bà mẹ bị tai biến, hai đứa con gái thì còn nhỏ, đang đi học. Nghe hướng dẫn của cán bộ trong làng, họ đi xin trợ cấp hộ nghèo, nhưng rồi sau 3 năm, việc giúp đỡ hộ nghèo cũng bị cắt, bởi cán bộ xác định là gia đình này "vẫn cứ nghèo hoài", nên không được giúp nữa. Khi hỏi thêm mới hay, nguồn trợ cấp này bị xà xẻo theo kiểu nào đó, mà mỗi năm, họ chỉ nhận được có 200 ngàn đồng vào dịp tết âm lịch. Đứa con gái lớn, nhận được giấy báo trúng tuyển 2 trường đại học, nhưng rồi phải từ bỏ ước mơ và nghĩ đến chuyện đi làm công kiếm sống.

Chắc rằng, tôi hay các bạn, ai cũng sẽ trĩu nặng những suy nghĩ riêng, khi đối diện với những câu chuyện như vậy, mặc dù vẫn phải cười.

Những hình ảnh và video của anh chị em trong nhóm thiện nguyên Có Mặt Cho Nhau góp gửi về, cho thấy người đi đến nơi trao thật khó nhọc, nhưng để đi đến nhận lấy, cũng không kém. Có những đứa trẻ vừa nhận được phần của mình, đã mở vội những những quyển tập và quà trong chương trình Triệu Quyển Tập Cho Em, xuýt xoa với giấy trắng mà thương.

Con đường dài từ Huế đến Quảng Trị, Quảng Bình... là những dữ liệu dồn nén cho câu hỏi những đứa trẻ Việt Nam học để làm gì? Ngay cả ở những giáo xứ Công giáo tử tế, trẻ em được khuyến khích học đến hết cấp 2 hoặc cấp 3, mọi thứ lại tiếp tục bế tắc ở mức độ cao hơn: chúng làm gì có đủ tiền để ra thành phố lớn học đại học? 

Ở các thành phố lớn, nơi con cái của những gia đình đầy đủ vẫn phải đang kêu gào và vật vã về chuyện sách giáo dục cứ đầy đoạ tinh thần trẻ em, thì vạn nơi khó khăn tiếp cận với con chữ như vậy, những đứa trẻ khác sẽ học như thế nào?

Dĩ nhiên, hỏi chỉ là một cách để tự vấn lương tâm về sự bất lực của những đứa trẻ và của chính bản thân mình trước một thế giới đẹp đẽ nhưng đầy ảo ảnh. Chắc rồi ai cũng sẽ có câu trả lời riêng cho bản thân mình. Nhất là khi nhìn vào thế giới sống của chúng ta - nơi đầy những câu chuyện như quan chức dùng tiền bằng cả những ngôi trường lớn hay khu nhà cứu nạn để mua quốc tịch nước ngoài cho bản thân mình - họ im lặng đào thoát khỏi một quê hương nghèo khó, nơi bị giới cầm quyền - bạn bè của họ - rất ung dung chi xài sai, thâm lạm đến hơn 55 ngàn tỷ đồng/năm từ tiền thuế.

Và ngay cả những người dù không ra đi nhưng nhà cao cửa rộng bất thường, dù được trang trí với nhiều bằng cấp hay chức vụ, nhưng trong những giờ phút riêng tư, chắc họ cũng mỉm cười và nói với nhau rằng "học để làm gì".







Tuesday, November 3, 2020

Mệ


Buổi sáng 1-11-2020, chuyến xe từ thiện lần mò đến được Ba Lòng, Dakrong, Quảng Trị. Con đường lầy lội, đôi lúc dừng lại bởi những đoạn sạt lún đỏ ngòm. Hai bên là núi và lũng sâu. Đây là một trong những nơi khốn khó nhất với người dân, vì nước lụt vẫn bất thần đến từ thủy điện và mưa, sạt lở đổ xuống từ trên cao, rồi đến bùn nhầy vây chặt các lối vào. Dân kể rằng trong hai tuần của tháng 10, họ chịu đến sáu lần lụt lội, mọi thứ trôi và chết theo nước nên giờ chỉ còn biết khoanh tay chờ cứu trợ đến hết năm, vì bao nhiêu thứ làm ra, dành dụm được từ đầu năm đến nay đã trôi tuột. Thậm chí thóc ngâm nước, ngậm sình khi gom lại được, gà vịt cũng không buồn ngó đến.

Lướt qua trong khung hình camera của tôi là những gương mặt sạm nắng núi. Khó nhọc ở nơi đó khiến người Kinh và người dân tộc Vân Kiều chỉ còn khác nhau một chút ở trang phục. Nụ cười của họ cũng giống nhau: chất phác và chịu đựng. Ngoài người Vân Kiều, ở đây còn có Pa Kô, Tà Ôi, Pa Hy, K’Tu… Các sắc tộc thiểu số ở đây đều nghèo và rất nghèo. Cuộc sống của họ là tự cung tự cấp, phần lớn học vấn cũng không qua tiểu học.

Trong đám đông xôn xao tụ họp ở sân trường chờ phát phiếu, gọi tên nhận quà từ thiện, tôi nhận thấy có một bà cụ ngồi lặng lẽ, kéo điếu thuốc kiểu Cẩm Lệ nhả khói chầm chậm với ánh mắt quan sát, như giễu cợt. Mọi người ở đó ai cũng biết mệ. Ắt mệ là một người nổi tiếng hay quen thuộc trong làng. Ghé lại hỏi thăm mệ đã nhận quà chưa, mệ nheo mắt, cười nửa miệng “mất phiếu phát quà rồi, không biết có được cho không”.

Mệ là cách gọi phổ biến ở miền Trung. Mệ có nghĩa là mẹ, là bu. Nhưng nhích vào phía Thừa Thiên Huế, thì mệ ở đây còn có nghĩa là “bà” theo cách gọi kính trọng con gái (con trai) dòng dõi vua trong triều đình nhà Nguyễn. Phong thái ung dung của mệ, làm tôi cứ liên tưởng đến một mệ hoàng tộc nào đó, lưu lạc đến tận nơi này. Đành phải vấy bùn nhưng không dứt được cội nguồn sang trọng thời son sắc.

Cũng có vài trường hợp những người đến nhận quà từ thiện nhưng bị mất phiếu. Ai nấy cũng đều khẩn khoản và lo lắng. Thế nhưng chữ “mất” nói ra trên khóe môi của mệ, nghe thoảng qua như làn khói thuốc.

Mất, là một động từ quen thuộc của những người miền Trung chịu bão lụt hàng năm. Thậm chí mất là một biến động trong đời có thể pha trộn cả sợ hãi và buồn bã. Vậy mà mệ nói với vẻ nhẹ nhàng, như chừng mất nữa, và có mất thêm nữa, thì có sao đâu.

Mệ có một phong thái đầy uy lực khác thường. Không cầu xin, không vội vã. Cười nhẹ và thản nhiên. Sự ung dung của mệ cũng khiến mấy chị mấy cô chung quanh sốt ruột giùm, lao xao nói để làm chứng cho vụ mất phiếu nhận quà của mệ. Buổi sáng phát quà trôi qua dưới trời lâm râm mưa, âm u không nắng. Những người cuối cùng cũng ra về. Tôi để ý tìm xem mệ có nhận được quà chưa thì thấy mệ cũng lững thững ra về, vai khoác túi quà. Miệng vẫn bập điếu thuốc rê hờ hững trên môi. Nhác thấy tôi nhìn, mệ cười (cũng kiểu cười rất “mệ” ấy) và gật đầu, ra dấu cám ơn. Mệ làm động tác như hỏi tôi có hút thuốc không, chắc muốn mời tôi một hơi Cẩm Lệ chăng. Thấy tôi từ chối và chào, mệ lại cười và quay lưng chậm rãi đi.

Chúng tôi lại chạy lui ra, vội vàng, để tránh việc nhà máy thủy điện gần đó có thể xả lũ bất cứ lúc nào, do dự báo mưa lớn ập đến. Chạy dọc những ngôi nhà xiêu vẹo, dọc theo các bãi bờ đã ngập bùn, người đi chung chỉ cho tôi thấy những dấu bùn còn bám lại trên những thân tre cao, tức dấu nước đã dâng ghi lại thành mốc: có nơi cao cả ba mét. Tôi tự hỏi những người như mệ sẽ làm thế nào vào những lúc như vậy. Giữ được một phong thái an nhiên ở vùng đất mờ sương, sạt lở, nước nối trời bất định kỳ, ắt hẳn, những người phụ nữ như mệ đã coi sống chết như lẽ vô thường, chấp nhận và tồn tại theo định mệnh cộng thêm một chút vui buồn làm gia vị mà thôi.

Nhìn qua ô kính, lướt qua các lũng sâu, tôi lại nghĩ đến hàng ngàn phụ nữ Việt Nam đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan, hay dứt áo ra đi xuống các đô thị lớn để kiếm sống, tự giam mình trong các căn nhà trọ nóng nực, nhỏ hẹp để tìm một “tương lai”, chỉ mong là có một cuộc sống khác bớt khắc khổ hơn với nơi nông thôn họ đang sống. Mỗi người có một giấc mơ của mình, có những khát vọng nhỏ bé… mà đôi khi khởi đầu chỉ bằng một căn phòng có nhà vệ sinh đúng nghĩa. Những cuộc đời Việt Nam mang theo giấc mộng con hiền lành, chịu nhiều phán xét nhưng chắc gì đã toại.

Mệ ngày xưa chắc là một phụ nữ đẹp, khối thằng đàn ông chắc đã mê mệt chạy theo mệ ấy chứ. Nhưng rồi mệ đã lỡ chuyến tàu định mệnh nào đó của mình, nên giờ chỉ nhẹ nhàng cười nửa miệng và chấp nhận những buổi chiều heo hút ngập sương mù bao phủ cả dãy Trường Sơn đến cuối đời.

Có bao nhiêu phụ nữ như mệ, đành lặng lẽ và cô đơn trong cuộc đời Việt Nam của mình như vậy, một Việt Nam rực rỡ đèn màu phố thị dễ làm quên bóng tối sâu hút ở các vùng quê. Câu hỏi đó, hiu hắt cả giấc ngủ mệt nhoài của tôi, và dù tỉnh dậy, tôi biết chắc rằng mình cũng sẽ khó mà tìm thấy được một lời đáp.

—————-

Khác với những tộc khác, người Vân Kiều có đến hơn 90% lấy họ Hồ, mà theo lời kể từ lịch sử đảng Cộng sản, thì để tỏ lòng biết ơn và kính trọng ông Hồ Chí Minh nên người Vân Kiều, Pa Kô đều lấy họ Hồ. Nhưng chiều dài khác của lịch sử thì ghi rằng, trước khi bước sang Kinh hóa họ tên của mình theo giấy tờ, người Vân Kiều thường có họ là Arâl, Târnau, Kê, Pata, Plo, Prung… dựa trên sự vật, cây cỏ, con thú… Sau khi được chiêu mộ làm bộ đội Bắc Việt, một người Vân Kiều tên là A Vai được phong danh hiệu anh hùng, và được ông Hồ Chí Minh ban cho họ của mình, được gọi là Hồ A Vai. Anh A Vai khi quay trở về làng của mình và cũng vận động tất cả dân làng lấy họ của ông Hồ Chí Minh.

Năm 1946, trước khi chuẩn bị cho Tổng tuyển cử, từ chiến khu Việt Bắc, ông Hồ Chí Minh cử đoàn cán bộ vào thăm hỏi đồng bào hai dân tộc Pa Kô, Vân Kiều ở mặt trận phía Tây Trị Thiên, mang theo nhiều bức hình của ông tặng các bản, tặng nhiều áo lụa cho các già làng, thuyết phục tộc này đi theo đảng Cộng sản. Nghe lời cán bộ, các già làng đã tổ chức đâm trâu, đồng ý đổi họ Kinh là Hồ để ghi tên trong thẻ cử tri, cho việc tổng tuyển cử. Đó là tháng 6-1946. Hiện chỉ còn có vài phần trăm người Pa Kô, Vân Kiều ở Đông Trường Sơn là còn giữ họ gốc theo truyền thống của mình. Nhưng cùng với những người cùng sắc tộc của mình đã đổi họ theo Kinh, tất cả đều nghèo khó.

Monday, November 2, 2020

Ngày nắng vẫn lên (Ký sự vùng lũ 2020)

Đầu giờ chiều ngày cuối tháng 10, mưa như trút nước khi đoàn xe từ thiện băng qua những cánh đồng ngập trắng của Quảng Bình. Trời mù che tầm nhìn, nhạt nhòa hòa không gian mênh mông những cánh ruộng phủ nước, mưa trắng xóa bốn phía. Xe chạy vào vùng của Giáo xứ Cồn Sẻ, một trong những nơi mà người dẫn đường nói là có ngày, dân phải ngủ đứng trong nước...

Cổng làng bằng xi măng, sừng sững nhoi lên giữa bốn bề lặng lẽ, với dòng chữ "Toàn dân đoàn kết xây dựng quê hương giàu đẹp". Cồn Sẻ là một nơi bùng lên nhiều thông tin vào năm 2016, được người dân cả nước quan tâm, liên quan chuyện Formosa xả thải ra biển làm hàng triệu người dân ven biển miền Trung điêu đứng. Cồn Sẻ thuộc một trong năm cồn, đảo nhỏ trên vùng hạ lưu Sông Gianh (tỉnh Quảng Bình), xứ đạo Cồn Sẻ với gần 4.000 giáo dân, được bao bọc chung quanh là sông nước, nên ngày thường thì thơ mộng, nhưng khi mưa to gió lớn thì lãnh đủ tai ương.
Dân Cồn Sẻ cũng như mọi người dân ở các miền xa của Bắc Trung Bộ. Họ hiền lành, dễ gần và cũng khốn khó cả đời với làng quê của mình. Khi thấy bóng đoàn xe vừa đến, từng người rụt rè đi vào, thêm hai, ba người nữa. Rồi nhanh chóng là cả nhóm cùng vào. Ai ấy đều ướt và trên tay cầm sẵn một túi nylon to, có thể nhận được gạo và mọi thứ khác. Hình ảnh đáng mến, là đoàn xe cứu trợ của thầy trò chùa Từ Hiếu, quận 8, Sài Gòn đi từ Nam vào đã được Thánh đường Franxicô Xaviê của Giáo xứ Cồn Sẻ cho mượn chỗ để giúp phát quà cho mấy trăm dân đang cùng cực qua mấy lần bão tố lụt lội. Hòa đồng tôn giáo là đây.
Trong khốn khó, con người Việt tìm thấy nhau giản đơn không cần bất cứ lý lẽ nào, quyền lợi nào ngoài hiệu lệnh của tình thương. Một phụ nữ được coi là khó khăn nhất trong số người dân đến nhận quà, được các chị các bà trong làng giới thiệu ra ngồi riêng, để chị nói thêm cho biết tình cảnh của chị. Thầy Thích Thiện Hùng chăm chú nghe, rồi hỏi "chị là tôn giáo nào, Phật giáo hay Công giáo?".
Thoạt đầu chị hơi ngập ngừng, với tâm lý rằng nếu đoàn Phật giáo đang giúp, e rằng sự khác biệt tín ngưỡng thì có thể gặp trắc trở. Nhưng rồi chị cũng nói nhỏ mình là giáo dân. Thầy Thích Thiện Hùng cười, trao cho chị phần quà phụ thêm, nói rằng "là người Công giáo, thì hãy tin và cầu nguyện với Chúa Jesus, với Mẹ Maria. Khổ nạn nào đến rồi cũng đi qua. Chỉ cần chị giữ lòng tin vào điều lành và ơn trên".
Gương mặt của người phụ nữ ấy có gì đó giống như nụ cười. Nhưng cũng không biết phải là nụ cười hay không. Bệnh tật thể xác và khó khăn đời sống kéo dài quá lâu, khiến ngay khi có chút niềm vui, cũng không thể nhận ra được là chị sẽ giữ lại được bao lâu chút cảm giác ấy.
Tôi dặn anh em trong đoàn rằng chúng ta đi giúp đồng bào, chứ không phải là kẻ ban phát, nên hãy cảm ơn người đã nhận những gì chúng ta mang đến. Vì ngoài tấm lòng, chúng ta còn chuyển giúp của cải của người dân ở mọi nơi trong nước, cũng như của anh chị em cô bác ở Pháp, Mỹ, Úc... đến cho mọi người. "Cảm ơn cô", "cảm ơn cụ"... vang lên ở những nơi người dân bước ra. Có thể thấy rõ nhiều người đến nhận, có cả ngại ngần và có thể có cả mặc cảm. Nhưng khi được cảm ơn, họ nở nụ cười, thoạt đầu có chút ngượng nghịu nhưng rồi nhanh chóng gần gũi và đứng lại nắm tay nói huyên thuyên đủ chuyện. "Các bác ở miền Nam hiền quá, cho quà còn cám ơn", một bác đội nón lá, mặc áo mưa, hai tay xách quà, chân đi khập khiễng đứng lại nói. "Vui lắm, dân ở đây nhận tin được quà, hẹn nhau đi vui lắm". Một cô khác thì ghé vào nói, nhìn và giơ tay vẫy trước máy ghi hình.
Khi ấy, trời vẫn mù đen, mưa vẫn rơi nặng hạt. Vẫn có thêm những người đạp xe đến trễ, đứng trước cửa ngóng vào, ngại ngùng. Khi được mời vào thì mừng, gác chống xe đi vào ngay. Xứ quê gọi là nghèo nhưng có vẻ chuyện trộm cắp trong làng, trong xứ đạo không nhiều nên ai nấy tự nhiên, không đề phòng gì cả.
Phần quà mang đến cho mỗi người dân là gạo, mì gói, cá hộp, xúc xích ăn liền, bánh mì chà bông, quần áo hay mền... cùng 500 ngàn đồng. Không là bao nhiêu với cuộc sống tiêu thụ ở các thành phố lớn nhưng lại là quà thiết yếu ở nông thôn. Bên cạnh đó, có những nhóm quan sát "bí mật" luôn tìm kiếm các trường hợp đặc biệt khó khăn để mời riêng ra, nghe họ nói thêm về hoàn cảnh để giúp sức thêm.
"500 ngàn đồng thì bác dùng được trong mấy ngày?", một phụ nữ vẻ không khắc khổ lắm bật cười khi được hỏi, làm mấy người đứng chung quanh cười theo.
"Cả mấy tuần ấy, gì mà dùng nhanh thế". Mọi người lại bật cười hồn nhiên. "Vậy một tháng thì một gia đình cần cho sinh hoạt ở đây là bao nhiêu? Năm triệu không bác ơi?". "Không đâu, tầm hai triệu cả nhà là đủ". Cảm đám nhao nhao đồng ý, rồi lại cười. Thương ghê.
Hai triệu đồng, có thể là một bữa ăn ở Sài Gòn hay một buổi karaoke ở Hà Nội. Nhưng hai triệu ở những mái nhà nhỏ, quanh co những con đường hiu hắt về đêm của hàng triệu người Việt khắp mọi nơi trên đất nước, là có nghĩa không nhọc nhằn.
Bà cụ mà tôi gặp trước đó ở Quảng Trị, dùng một ống tuýp phơi đồ làm gậy chống, ngồi ngóng tên mình nhận quà đã bàng hoàng khi tôi nhét vào tay cụ 500 ngàn đồng. Cụ hơn 80 tuổi, sống một mình trong làng và ai cho gì ăn nấy. Mấy ngày Dương Lệ Đông nước ngập lạnh ngắt, cao đến 1m6, cụ chỉ biết ôm thùng nhựa để trôi, ai kéo đi đâu thì đi. Ngâm nước nhiều đến mức da chân của cụ giống như bị chảy ra, vằn vện khi khô. Khi nhận được tiền, cụ vội nhét vào cạp quần rồi lập cập đứng lên đi chỗ khác. Thoạt đầu tôi ngạc nhiên vì không hiểu mình có làm gì cho cụ phật lòng không. Sau đó, một người ở địa phương mới giải thích rằng cụ nhận được tiền nhiều nên sợ bị để ý, sợ có ai đó thấy sẽ trộm hay giật của cụ, nên cụ phải đi ngay.
Chuyến đi do hòa thượng Thích Nguyên Lý và Thích Thiện Minh từ Sài Gòn qua năm tỉnh miền Trung, với hơn 2.500 phần quà từ thiện chỉ như là muối bỏ biển với khó khăn của người dân bị nạn. Nhưng trên đường đi ra, nhìn thấy những đoàn xe của mọi nơi treo bảng vì miền Trung đang cấp tập đi vào mới thấy ấm lòng, rằng dù như thế nào, dù ít dù nhiều, người vẫn luôn tìm đến nhau qua tiếng gọi đồng bào.
Đọc bản tin cô ca sĩ Thủy Tiên tặng tiền cho dân ở Quảng Bình, nghe chính quyền xã nói dân tự nguyện nộp lại, tổng cộng đến mấy trăm triệu mà ứa bước mắt. Đứng ở giữa trời đất mưa gió âm u, đứng ở nơi những bàn chân cong veo vì không có cơ hội khô ráo ấy, đứng ở đám đông nhẫn nại chịu đựng cả quái ác của thiên nhiên và sự cường bạo của con người, mới hiểu những loại "tự nguyện" ấy là không có thật. Đau đớn lắm, bị oằn xéo lắm thì người dân mới rứt ruột "tự nguyện" như vậy.
Trong suốt những ngày chỉ có nước, mây đen, gió lạnh ngắt... Thỉnh thoảng nắng vẫn hé lên bất chợt. Giây phút ấy đẹp lạ thường. Đẹp không ngôn từ nào tả nổi. Những ngày ở miền Trung, tháng 10-2020, tôi được chứng kiến những tia nắng như vậy. Nó đẹp như buổi những người Công giáo và Phật giáo góp tay nhau bằng mật ngữ yêu thương. Đẹp trong nụ cười của những người dân Việt không quen biết, rực rỡ trong niềm vui và sự biết ơn của chúng tôi. Nắng sẽ phải lên, nhiều hơn và tỏa sáng hơn nữa trên quê hương đầy mây mù của chúng ta.
Tôi luôn tin như vậy.



Friday, October 23, 2020

Dùng Nghị định 64/2008 chống quyền cứu trợ của cá nhân, là sai hoàn toàn

(ảnh từ trái qua: Ông Lê Thân, Ông Lê Thăng Long)


(Phỏng vấn ông Lê Thân, Chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng về chuyện dân tự cứu nhau có thể bị coi là phạm luật hiện nay)


Trong đợt bão lụt tháng 10/ 2020, sự kiện người dân tự quyên góp và tổ chức đi cứu trợ ở các tỉnh miền Trung diễn ra hết sức sôi động, nhưng chuyện ấy cũng làm tốn không ít giấy mực khi có những quan chức nhà nước viện dẫn nghị định 64/2008/NĐ-CP, nói rằng mọi nguồn quyên góp cứu trợ đều phải đến cửa Mặt trận Tổ quốc hoặc các cơ quan của nhà nước có thẩm quyền.
Ca sĩ Thủy Tiên với hơn 100 tỷ quyên góp được từ người dân ở khắp nơi, cho việc cứu trợ trực tiếp của mình, đã trở thành đề tài chính, đại diện cho tất cả mọi hoạt động tương tự. Mà theo đó, có những tuyên bố cho rằng cô Thủy Tiên đã phạm luật và có thể bị xử lý theo pháp luật vì hành động cá nhân như vậy.
Dựa trên những nguồn viện dẫn nghị định 64/2008 như vậy, cũng đã có những chính quyền địa phương làm theo, gây cản trở nhất định cho việc cứu trợ giúp nhau của người dân.
Trao đổi nhanh với ông Lê Thân, Chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng, ông nói việc cứ lấy nội dung 64/2008 để hành xử vào lúc này là hoàn toàn sai lầm. Thậm chí sự sai lầm đó còn có ý nghĩa chống lại Bộ luật Dân sự 2015, theo điều 457.

*** Thưa ông, vì sao gọi là hiểu sai, và cố ý hiểu sai về Nghị định 64/2008, ông có thể nói rõ hơn cho mọi người được biết?
--- Không chỉ riêng tôi nhìn thấy, mà những người đọc luật đều biết. Ngay cả bà Nguyễn Thị Xuân Thu, ĐBQH, chủ tịch Hội Chữ thập đỏ VN cũng đã nhấn mạnh rằng hoạt động từ thiện cá nhân như cô Thủy Tiên là hoàn toàn hợp pháp theo Bộ luật Dân sự 2015, ở điều 457.
Nội dung của điều này các “hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận”. Có nghĩa là theo các thỏa thuận dân sự như đi cứu trợ và người tài trợ hoạt động đó, là một công việc bình thường trong xã hội và không có gì là vi phạm pháp luật cả.
Tôi giải thích cụ thể hơn như vầy: Tôi muốn tặng một xe đạp cho một người nào đó, ở cách xa nơi tôi đang sống. Tôi có quyền chuyển tiền hay chuyển hiện vật để nhờ người khác giúp tôi thực hiện việc trao tặng. Làm việc đó là không có gì bất hợp pháp. Vấn đề tặng một chiếc xe đạp nghe rất đơn giản và có lẽ không ai quan tâm. Nhưng bởi vì số tiền lên đến trăm tỷ, cho nên sự việc bị méo mó đi theo nhiều hướng khác, mặc dù nội dung sự việc thì hoàn toàn giống nhau, phù hợp với pháp luật đã quy định.
Cũng cần nên nhớ rằng nghị định 64/2008 thuần túy quy định về cách ứng xử của bộ máy nhà nước, và đã ra đời cách đây 12 năm. Điều luật 457 của Bộ luật Dân sự được ban hành vào năm 2015 có nghĩa rằng không có một giá trị nào của nghị định từ năm 2008 được quyền phủ nhận giá trị của điều luật 457, được Quốc hội thống nhất ban hành vào năm 2015.
*** Nếu nói như vậy, thì tại sao lại có trường hợp thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và nhiều quan chức noi theo đó để xác định nghị định 64/2008 như một tiêu chuẩn, dẫn đến việc nhiều đoàn từ thiện, cứu trợ bị gây khó đến mức dư luận phản ứng và chẳng hạn vừa rồi, tỉnh Quảng Trị phải ra một công văn giải thích, nói lại…
--- Tôi tin rằng tổ tư vấn cho Thủ tướng đã để sót điều luật 457 của Bộ luật Dân sự 2015. Và khi sai lầm đó xảy ra, nó trở thành sai lầm của cả hệ thống khi ai nấy đều răm rắp hành động theo lời Thủ tướng.
Nhưng tôi tin cũng có những trường hợp sau đó hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai. Vì không thể trong cả nước chỉ có vài người đủ sức nhận biết để nhận ra sai sót này.
Cố tình hiểu sai, bởi sự lợi dụng các cơ quan địa phương ở những vùng xa, việc đón các đoàn từ thiện kèm theo nhũng nhiễu, thâm lạm hay bất minh… đều có thể xảy ra. Chính ngay trên báo chí nhà nước vẫn luôn có các tin tức như vậy.
Công sức và tình cảm của người dân chia sẻ với đồng bào bị nạn, đột nhiên trở thành công và của của các cơ quan nhà nước thì không hợp lý chút nào. Hành xử đúng của cơ quan chính quyền là phải hợp tác với người dân để cùng cứu giúp đồng bào bị nạn, không phải là giành quyền.
Tôi nhớ trận lụt năm 1964, ở miền Nam luôn có các đoàn từ thiện, cứu trợ tự phát như vậy. Ở nơi xuất phát, người ta chỉ cần thông báo cho chính quyền biết ngày giờ họ đến nơi nào, thì ở tỉnh đó sẽ chuẩn bị xe cộ, thiết bị vận chuyển của nhà nước đón sẵn giúp cho họ di chuyển thật nhanh và tiện lợi. Còn nếu muốn đi vào những nơi bị ngập lụt mà xe không thể đi được thì cứ báo trước, sẽ có cả ca-nô và thuyền do nhà nước tổ chức chờ sẵn theo tên đặt trước. Có những trường hợp theo đề nghị của đoàn, trực thăng trợ giúp việc rãi các nhu yếu phẩm để mong có người bị kẹt ở đâu đó lấy được.
Có nghĩa rằng trong hoạn nạn thì nhà nước phải cùng phối hợp với những người dân để cứu giúp cho đồng bào khó khăn, chứ không thể dựa trên điều luật nào, lý do nào để giành độc quyền cứu trợ.
*** Người dân khi tự ý hành động, đôi khi phải vượt qua những rào cản bất cập nhất định để làm được điều mình muốn theo lẽ phải. Họ có thể vấp phải những điều luật như “gây mất an ninh trật tự”, “chống người thi hành công vụ”… Nhưng với trường hợp khẩn cấp quốc nạn như thiên tai hiện nay, nếu như có cơ quan địa phương cản trở hành động hợp lý của người dân, liệu Bộ luật Dân sự 2015 đã có điều luật nào cho dân khởi kiện và xử phạt những người cầm quyền cản trở hay không? Quốc hội dường như đã bỏ quên vế này?
--- Trong một quốc gia bình thường, Người dân không cần thêm bất kỳ quyền nào như vậy đâu. Vì chính bản thân công dân là đại diện cho hiến pháp và luật pháp của một quốc gia khi hành động vì lẽ phải. Quyền công dân tối thượng được kích hoạt ngay vào lúc đó. Nhưng phải nói rõ là những chính quyền điạ phương hành động, họ luôn tạo cớ để không rơi vào trạng thái sai luật. Có nghĩa rằng họ rất hiểu luật nhưng hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai.

Thursday, October 22, 2020

Mọi thứ, phải chỉ là nhân dân


Mùa bão – lũ – lụt năm 2020 ở Việt Nam bùng lên. Tháng 10 năm Canh Tý, nước dâng nhanh như sấm giật, người dân miền Trung kể rằng họ mới đốt nến lên nhìn mực nước dưới cột nhà, quay đi quay lại một chút, nước đã sát mép chân. Nước dâng cho mưa, lụt nhưng nước còn ngậm lũ của những nhà máy thủy điện do nhà nước dựng lên xả ra liên hồi.

Tiếng dân kêu nạn của năm Canh Tý có nhiều điều lạ thường. Người dân không gọi tên nhà nước, mà chỉ gọi tên nhau. Dân gọi dân, đời gọi đời, thậm chí gọi cả trời… nhưng ít ai nghe thấy tiếng gọi tên nhà cầm quyền trong cơn hoạn nạn.

Suốt nhiều tuần liền, trên các trang mạng xã hội như Facebook, tràn ngập các tin tức về người cứu người, hy vọng được cứu và hy vọng đến nơi kịp lúc. Không có ranh giới nào về vùng miền hay giàu nghèo. Bức tranh Việt Nam đẹp lạ lùng trong khốn khó.

Nhưng, đó là chuyện của dân đen.

Mặt khác của việc người dân tự giúp nhau, không gọi tên chính quyền trong hành động đơn phương của mình – nói một cách nào đó đã tạo ra một cơn đau nhức, tinh thần của những người lãnh đạo. Những người cầm quyền bị đẩy ra ngoài rìa của hành động yêu thương, như thể họ bị coi như không phải là người Việt vậy. Bên cạnh đó, những tuyên bố cứu trợ người dân từ nhà nước rất chậm chạp so với hành động trực tiếp và hiệu quả của một cô ca sĩ tên Thủy Tiên ở Sài Gòn, là sự sụp đổ về ý nghĩa cai trị đất nước, đặc biệt khi sự cai trị đó, luôn hô to là sống chết vì nhân dân.  

Trăm năm nay, nước Việt vẫn sống và gượng sống với bất kỳ khó khăn nào, bởi tình đồng bào. Kẻ bị tát phía kia, thì phía này cũng đau. Chuyện đói khổ ở đâu đó, dù không nhìn thấy mặt nhau nhưng đủ thắt tim người đang ăn miếng no đủ. Những điều giản đơn ấy tạo nên một tinh thần đạo đức của người Việt, như di sản cuối của cha ông để lại.

Đến thời đại hôm nay, mưa lũ hôm nay, giữa mọi thứ đau thương hỗn loạn diễn ra, nhà cầm quyền nhất mực tập trung kèn trống đại hội riêng. Bên cạnh hình ảnh rộn rịp vỗ tay chúc tụng nhau, là bão ập, nước dâng, người chết, nhưng rồi chỉ có một tướng quân được nhắc tên để tưởng niệm ở Quốc hội.

Rồi đến khi rảnh tay, các quan lại địa phương lại trình diễn bằng ngôn ngữ chính trị, vờn trên khốn khó đời thật của dân đen, bằng việc viễn dẫn luật 64/2008 để chặn thu tiền cứu trợ của mọi nơi dồn về vùng bị nạn. Luật 64/2008 tạo ra áp đặt và mơ hồ, lại được bọn lạm quyền thích dựa dẫm làm cớ để chặn, lấy, trong lúc quốc gia khẩn cấp. Luật ấy cắt đứt nghĩa đồng bào, tình dân tộc… bằng cách ra lệnh không có bất kỳ ai người Việt được quyền tự mình cứu giúp nhau, mà phải nộp hết cho nhà nước, và để nhà nước định đoạt.

Bối cảnh ấy, dẫn đến những xung đột nhất định. Và những xung đột như vậy giữa người cứu trợ và các giới chức địa phương cũng cho thấy luật về quyền lập hội, công đoàn hay tổ chức NGO trong nước đang thúc bách vô cùng. Ở nhiều nơi cho biết, nhiều đoàn cứu trợ đã tức giận ngừng phát, có người đòi mang hàng cứu trợ đi về, phát luôn trên đường đi chứ không muốn bị lấy đi, nạp cho bất kỳ cơ quan địa phương nào.

Hàng cứu trợ chồng chất ở các nơi như vậy nhưng không đến được tay người dân, tranh cãi nhiêu khê. Luật 64/2008 giúp cho các quan lại địa phương khả năng không bóp được dân bên ngoài, thì bóp dân bên trong. Nhiều gia đình từng kể với báo chí rằng, họ vừa cầm được 500 ngàn, nụ cười chưa kịp tắt thì bọn nách thước, sai nha ập đến, lấy đi 400 ngàn, vỗ ngực nhân danh phải chia phần công bằng.

Dân gian vẫn có câu "mượn hoa dâng Phật" hay mỉa mai hơn là "của người ơn ta". Một hệ thống hành chính nhà nước thì không thể tồn tại trong sự mỉa mai như vậy, và nếu cố bám vào một điều luật không sức sống nào đó để hành động, thì lại là cơ hội tốt để trăm triệu dân Việt xét lại về cách sự nuôi dưỡng bất công, vô lý đó có xứng đáng là bộ mặt đại diện một nhà nước hay không?

Quảng Trị là một trong những nơi sớm nhất nhận ra sự xung đột này. Công văn giải thích (nói lại) từ tỉnh này với hoạt động cứu trợ, phân minh rằng sẽ không có cản trở hay buộc giao nộp hàng cứu trợ có thể chưa làm vừa lòng hoàn toàn những người dân quan tâm, nhưng chí ít cho thấy phản ứng cần thiết phải làm. Dù bịt mắt bịt tai cố chấp như thế nào, rồi cũng phải có người nhận ra rằng: Nhân dân là giá trị tối ưu cho việc xây dựng xã hội. Không thể có hệ thống công quyền mạnh đứng trên nền nhân dân đói khổ - còn nếu có, chỉ có thể là áp bức.

Không có thứ luật nào hay mệnh lệnh chính trị nào có thể cưỡi, ngồi trên nỗi đau của con người. Đó là điều mọi nhà lãnh đạo cần phải học nằm lòng. Nhất là khi có những loại luật được tạo ra để hủy diệt truyền thống thương yêu của người Việt với nhau.



Sunday, October 11, 2020

Từ thông điệp của Đức Đạt Lai Lạt Ma

 


Ngày 10 tháng 10 hàng năm, được Liên Hợp Quốc chọn làm  World Mental Health Day (tạm dịch: Ngày của thế giới về Sức khỏe Tinh thần). Trải qua đại dịch Covid-19 và những bất an về chính trị, xã hội, môi trường… đang diễn ra, bình an tinh thần của con người là được nhắc đến như một trong những giải pháp sống còn của nhân loại.

Nói trong thông điệp nhân ngày này, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng điều cuối cùng mà con người khao khát, đặc biệt khi các nhu cầu vật chất có thể không còn thiếu thốn nữa, là sự thanh thản trong tâm hồn: thứ không thể mua được bằng tiền, không thể có được bằng chiếm đoạt được bằng bạo lực, đó là sự an lạc nội tâm. Tài sản đó tuyệt đối quý giá khi nhận thức đủ, và thật đau đớn khi bị mất đi.

Người Việt Nam, có bao nhiêu người tìm thấy được món quà an lạc quý giá đó trong tâm trí của mình?

Chắc là không nhiều, tôi nghĩ vậy, hoặc luôn luôn bị xáo trộn với cuộc đời trên đất nước này. Vì bởi mỗi sáng thức dậy, bất kỳ người Việt Nam cũng dễ dàng nhìn thấy một câu chuyện hành động chà đạp lên pháp luật, sự ngang ngược của nhân viên hay bộ máy hành chính công quyền, oan khiên, tàn phá môi trường, tham nhũng ngang nhiên… và sự chịu đựng vô cùng của con người trong một thế giới sống đang chủ trương vật chất vô thần lớn hơn tinh thần.

Chưa bao giờ người Việt có thể ngưng nghỉ cho sự an lạc đúng nghĩa, nếu như bạn là người tử tế. Chỉ mới hôm qua là một trí thức bị bắt cóc và ghép tội chỉ vì tố cáo một quan chức trung ương đạo văn lấy bằng tiến sĩ. Rồi chuyện giáo dục nhầy nhụa với những lần cải cách, hứa hẹn sẽ lại cải cách tốn kém vào năm sau như một loại đặt bẫy ngân sách… Vô số những câu chuyện như vậy từng ngày đang giày xéo tâm hồn Việt, dù bạn muốn ngó lơ cũng không thể.

Rất dễ nhìn thấy cuộc sống đã tác động như thế nào với tâm hồn người Việt hôm nay. Tranh cãi về giáo dục, chính trị, xã hội, kinh tế… trên các trang mạng xã hội, người Việt sẵn sàng gây hấn bằng ngôn ngữ, mạt sát và coi nhau như kẻ thù không đội trời chung nhanh chóng qua vài lời. Dĩ nhiên, không thể nói việc tạo dựng nên các nhóm AK47 và Dư luận viên để tạo nên những làn sóng tư duy và ngôn từ mạt hạng ở mọi nơi, cũng là một tội ác của nhà cầm quyền đang làm tan nát tinh thần người Việt, ở phía sử dụng cũng như phía bị tấn công.

Bạn nghĩ xem, ngó lơ, quên và mặc kệ mọi thứ có giải thoát được không?

Trong thông điệp của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc đến Bồ đề tâm giữa thế giới hỗn loạn này, như một giải pháp. Tức khi biết vận dụng sự ủi an kẻ khác, thương yêu và san sẻ gánh nặng với con người, kính trọng những người tử tế… bản thân đã tìm thấy sự an lạc bằng cách tự mình đứng dậy, lớn hơn mọi nghịch cảnh hỗn mang đang diễn ra, gửi đi những sức mạnh tinh thần cho người khác và cộng hưởng trong thế giới sống của mình.

Vì cuối cùng, sự thanh thản lớn nhất, không phải là khi chúng ta nhắm mắt có đủ nhung lụa và của cải thế gian chung quanh. Mà là trên đường đi vào thế giới khác, ít nhất ta cũng nhẹ lòng trong cuộc sống đã không bỏ quên đồng loại, đã từ chối yêu thương, chia sẻ vì sự ích kỷ hay hèn nhát trước bạo quyền.

Ít nhất, chúng ta đã sống và sống đúng trong thế giới tàn bạo hôm nay. Sống như một con người và thanh thản vì không cần phải tìm kiếm ngôn ngữ ngụy biện nào để bào chữa cho sự tồn tại của mình.

 

-----

"Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục", được cho là câu nói của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Đối diện với cuộc sống không bằng sự yên thân tạm bợ, hy vọng trong sợ hãi, thì chính sức mạnh từ bi và hành động với tâm Bồ đề, là cách để giải trừ sự mê muội đó. 

"Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật,

Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề". Cả Phật cũng không thể mũ ni che tai, quên sự đời mà tận hưởng sự an lạc của mình. Thấy nỗi đau của con người mà tự cho đó là điều không nên can dự, là tội ác. Phật không thể thành Phật – nếu không dám xông vào địa ngục để cứu độ chúng sinh.