Wednesday, December 31, 2014

Hy vọng từ mùa xuân mới

Một năm nữa vừa khép lại. 365 ngày từ đất nước Việt Nam chứng kiến chuyện người, chuyện mình, bất kỳ ai trong chúng ta cũng có thể dấy lên một niềm hy vọng. Có thể niềm hy vọng khởi đi từ tăm tối, niềm hy vọng hồi sinh từ khổ nạn hay niềm hy vọng chỉ còn có thể gửi lại cho đời sau. Đón một mùa xuân, mầm hy vọng lại trồi sinh, chia cho mọi nhà.


Mùa xuân này, có lẽ những người dân Cuba cũng đang hết sức hạnh phúc và hy vọng. Bài diễn văn ngày 17/12 của tổng thống Barack Obama tuyên bố bình thường hoá quan hệ với đảo quốc này sau 54 năm thù địch, đã mở ra một ánh sáng tương lai mới cho dân tộc đã quá khốn khổ này. Cách đây 5 năm, người dân Cuba mới bắt đầu được sử dụng điện thoại di động, tivi màu, lò vi sóng... cũng như những phương tiện hiện đại khác chỉ vì chính sách kiểm soát xã hội - con người của chính phủ. Sự hà khắc của chính quyền Cuba cũng được báo chí mô tả không ít trong từ trước đến nay.

Niềm hy vọng vào tương lai mới của người dân Cuba hiện rõ trên gương mặt từng người, trong từng lời nói được ghi lại trên báo chi và truyền hình quốc tế. Từ hôm nay, những nhạc sĩ, ca sĩ phản kháng của Cuba sẽ không còn phải ngại ngùng để giới thiệu những bài hát của mình về những điều thao thức về vận mệnh dân tộc mình, tổ quốc mình trước lưỡi hái kiểm duyệt. Một chương mới đang đến với lịch sử Cuba.

Niềm hy vọng này không phải mới có, mà đã là một tiến trình thầm lặng, mà chính ngay giới cầm quyền Cuba nhận ra rằng họ cần phải tự thay đổi để sống còn chứ không thể duy trì sự hà khắc để bảo vệ chế độ cộng sản. Từ năm 2012, một mệnh lệnh bí mật được ban ra, cho phép gỡ bỏ dần việc cấm cản, chấm dứt bỏ tù hay sách nhiễu các nghệ sĩ chống chính quyền Fidel Castro. Người dân Cuba đã sửng sốt khi nghe trên radio xuất hiện tiếng hát của các ca sĩ lưu vong Gloria Estefan, Willy Chirino hay tiếng saxophone nhạc jazz của nghệ sĩ Paquito d’Rivera. Thậm chí bà Celia Cruz, được mệnh danh là nữ hoàng nhạc salsa của thế giới cũng được quay lại, sau 50 năm bị cấm vì những tuyên bố mang tính dân chủ của bà. Thậm chí năm 2013, chính quyền Cuba còn làm một hành động mang tính đột phá khi mời bà Celia Cruz từ Mỹ về diễn ở quê hương và ngỏ ý bà nên ở lại và tự do ca hát, cho dù vài năm trước đó, họ đã từng lạnh lùng từ chối cho bà nhập cảnh để dự đám tang cha.

Mùa xuân này, trong dòng người xuống đường đòi chính quyền Cuba hãy nhanh chóng thay đổi thể chế, người ta còn nghe thấy âm nhạc tự do vang lên cùng với họ. Âm nhạc vang lên cùng với hy vọng.

Một trong những sự kiện khó quên khác của cuối năm 2013, đó là chuyện phim hài Interview giá 44 triệu USD của Mỹ khiến cả thế giới theo dõi, để xem quyền tự do ngôn luận có thể chiến thắng được nỗi sợ hãi kẻ khủng bố hay không. Nội dung hài hước về việc 2 ký giả lá cải được CIA giao nhiệm vụ ám sát lãnh tụ Bắc Hàn, đã khiến lãnh tụ họ Kim thật ở ngoài đời nổi giận và đòi huỷ diệt cả nước Mỹ và hãng phim, khiến một nỗi hoảng sợ bao trùm mọi nơi.

Thật sự, đây là một phim hài không có gì đặc sắc. Nhưng nếu Sony Pictures, chủ đầu tư bộ phim này lùi bước, nó sẽ là một bước lùi ô nhục cho quyền tự do tư duy và văn hoá của con người trong thiên niên kỷ được coi là văn minh nhất. Ngày 23 tháng 12, 2014, nhà biên kịch Seth Rogen viết trên trang twitter của mình về việc hãng Sony quyết định công chiếu, bất chấp mọi hiểm nguy, trên đó, ông ghi rằng "Tự do trên hết, Sony sẽ không thể từ bỏ hành trình của mình".

Ít ai biết, để đi đến quyết định đầy thách thức này, Sony đã nhận được rất nhiều lời vận động, ủng hộ từ giới nghệ sĩ có ý thức chính trị và xã hội. Đặc biệt là từ những lời khuyên của diễn viên điện ảnh George Clooney, Sean Penn và của tổng thống President Barack Obama. Điều được nhấn mạnh, là vấn đề không phải ở chỗ một cuốn phim, mà là quyền con người cho tương lai. Rơi vào tình trạng giống như những dư luận viên được Trung Quốc thuê mướn ở Hồng Kông trong cuộc Cách Mạng Dù luôn kêu la về việc họ cần bình yên để làm ăn hơn là dân chủ và rủi ro, hãng Sony được nhắc rằng họ cần phải tồn tại với danh dự của mình và văn minh tương lai, hơn là bảo an thấp hèn.

Một cuộc cách mạnh internet thầm lặng trong lòng Bắc Hàn cũng đang diễn ra sôi động. Hàng triệu người tìm kiếm và chia sẻ nhau bộ phim này để hiểu được thế giới nhìn như thế nào về vị lãnh tụ của mình. Nỗi sợ hãi và tín ngưỡng nhồi sọ huyền ảo về kẻ cai trị cũng phai nhạt dần từ tiếng cười của Interview đem lại. Cũng có thể đã có những niềm hy vọng thắp lên từ bóng tối của miền bắc Triều Tiên, về một mùa xuân mới của ngày mai không còn cộng sản.

Còn một niềm hy vọng khác, gần gũi hơn. Đó là từ thế ảo tại Việt Nam. Khác lại với bất kỳ mạng xã hội nào trên thế giới, facebook tại Việt Nam đang trở thành trạm thông tin quan trọng, đem đến những điều chạm vào da thịt, suy nghĩ của từng người về cuộc sống này. Sự chia sẻ này thậm chí đang khiến báo chí chuyên nghiệp Việt ngữ trở thành nhàm chán và chạm chạp.

Từ các trang mạng, người Việt tìm thấy nhau chân thành hơn, sâu sắc hơn. Rất nhiều những chương trình từ thiện xuất hiện trên đây đã giúp các mạng người, cứu vớt những số phận mà không cần danh lợi. Bên cạnh đó, nhiều sự kiện xã hội còn được các trang mạng lên tiếng, đánh động dư luận đã khiến lương tâm con người thức tỉnh, công lý được vực dậy từ tro tàn. Cái ác bị vạch mặt, những kẻ đục ruỗng đất nước hiện nguyên hình. Những vụ án kêu oan của Hồ Duy Hải (Long An) hay Nguyễn Văn Chưởng (Hải Dương)... thậm chí đã đánh động đến tận các bữa họp quốc hội.

Từ các trang mạng, những con người Việt Nam vô danh đang giúp cho ngành tư pháp nhiều chứng cứ hơn để hoàn thiện các trường hợp, nhiều dữ liệu hơn để cả xã hội nhìn thấy đất nước mình ở đâu, như thế nào... đặc biệt với các trường hợp nhục hình ép cung, lạm quyền bạo hành với người dân, mà báo chí đã liệt kê ở Bắc Giang, Phú Yên, Đắc Lắc, Cần Thơ...

Mạng xã hội là con thuyền và các blogger Việt Nam tử tế đang chèo chống vượt qua những nỗi sợ hãi, sự ích kỷ thấp hèn trong đời sống để cùng xây dựng đất nước này. Họ mang lại những niềm hy vọng cho những người im lặng ngóng nhìn một niềm hy vọng, ngay cả khi chính người viết còn đang tuyệt vọng. Thế giới phẳng đang ngầm nhắc rằng chỉ duy người Việt trên thế gian này mới được hai tiếng đồng bào. Một giống nòi đã cam kết từ khi ra đời sẽ đùm bọc và yêu thương, đưa nhau khốn khó. Một giống nòi chia nhau lên núi và xuống biển để tìm hy vọng.

Một năm nữa đã khép lại. Những u mê, hận thù hay tham lam, cố quyền khép lại, hé mở một năm mới đang nẩy mầm hy vọng. Nhìn quanh ta, và nhìn lại mình, thật sự ta đang vẫn thấy mình còn nuôi hy vọng.

Wednesday, December 24, 2014

Lắng nghe bài hát Giáng sinh Việt Nam 100 tuổi

[caption id="" align="alignnone" width="720" caption="Ảnh: Giang Đông Du"]image[/caption]

Mùa Giáng sinh đến với người Việt Nam đầy những giai điệu của một mùa yêu thương và chia sẻ. Giáng sinh chưa bao giờ có thể thiếu âm nhạc. Và những gì được ghi chép từ âm nhạc Giáng Sinh được biết đến ở Việt Nam, đang làm thay đổi mọi nhận thức về lịch sử tân nhạc Việt Nam từ thời tiền Đệ nhị Thế chiến.

Theo các tài liệu được biết về âm nhạc Giáng Sinh được người Việt nội hóa, tức sáng tác mới từ tiếng Việt chứ không hề chuyển ngữ, thì từ năm 1911, đã có bài Nửa đêm mừng Chúa ra đời do hai linh mục Phao-lô Đoàn Quang Đạt và Gabriel Long soạn thành bài, dựng nên tiết mục hoạt cảnh cho sinh hoạt của nhà thờ. Linh mục Grabriel Long là thầy của linh mục Đoàn Quang Đạt, và là người góp ý để bài hát này ra đời hoàn chỉnh.

Đầu thế kỷ 20, nơi mọi thứ còn rất mông muội trong sinh hoạt văn hóa của người Việt, chính các linh mục với nền Tây học đầu tiên, là người đem nhạc lý và trình diễn âm nhạc đến sớm nhất với người dân theo đạo trong vùng của mình. Nhiều tiết mục âm nhạc, kịch nghệ… lẫn sáng tác mới đã hình thành từ đây. Tuy nhiên, do yếu tố sinh hoạt còn khép kín trong những người theo đạo, nên sự quảng bá không rộng rãi như bây giờ. Âm nhạc lúc bấy giờ chỉ được dùng trong các nghi lễ và sinh hoạt tôn giáo, nên chưa có sức lan tỏa mạnh với quần chúng. Hơn nữa, thị trường âm nhạc Tây học vẫn chưa có chỗ đứng với người Việt, khi đô thị và sinh hoạt kiểu phương Tây chỉ mới bắt đầu hình thành.

Bài hát Nửa đêm mừng Chúa ra đời thường được ghi với tên của linh mục Đoàn Quang Đạt, một phần vì ông là tác giả chính, phần khác là linh mục Gabriel Long với sự khiêm tốn trong việc giới thiệu phần đóng góp của mình, nên cũng ít được nhắc tới. Văn bản viết bằng nốt nhạc hoàn chỉnh trên những dòng kẻ tay của linh mục Đoàn Quang Đạt (1877-1956), được ghi nhận có từ 1911, tức trở thành dữ liệu được tìm thấy sớm nhất về âm nhạc Tây học của người Việt. Hơn nữa, từ năm 1911, bài hát này đã được dàn dựng và trình diễn không ngừng đến tận hôm nay. Năm 1910, nhà sách Tân Định Ấn Quán (Imprimerie de la Mission de Tan Dinh) đã cho ra tập nhạc bản này.

Thật ra, dựa theo tập nhạc nói trên, người ta tìm thấy một bài hát khác của linh  mục Đoàn Quang Đạt, viết từ năm 1907 tên là Ca Vịnh Đức Bà. Do bài hát này ít phổ biến hơn, cũng như thất lạc văn bản gốc, nên tạm thời bài Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời được coi là bài hát đi theo dòng tân nhạc, có mặt sớm nhất trong lịch sử Việt Nam. Và mùa Giáng sinh năm nay, bài hát này được vang lên với độ dài hơn một thế kỷ để chúc lành cho mọi người trong thế giới chưa bao giờ bình an thật sự này.

Nói về nhạc thuật, cũng như lời hát, nếu một lần được nghe qua, bất kỳ ai yêu âm nhạc cũng ngạc nhiên về sự tinh tế trong sáng tác, cũng như hòa nhập tính cách Nam bộ của người Việt theo đạo Công giáo từ miền khác vào đồng bằng Cửu Long. Trong thời điểm mà quốc ngữ còn đang còn nhiều khiếm khuyết, sự hoàn chỉnh của ngôn ngữ trong bài hát này đã làm nhiều nhà ngôn ngữ phải kinh ngạc.

Sự ra đời của bài hát Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời là một bước ngoặt quan trọng trong việc nhìn nhận sự xuất hiện của tân nhạc Việt Nam. Với những tài liệu được biết, bao gồm đĩa nhựa 78 vòng được xuất bản, người ta chỉ biết đến nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên với bài Kiếp Hoa, xuất hiện năm 1938, trong sự trợ giúp của Thống đốc Nam Kỳ Henri Georges Rivoal (1886-1963) để vận động cho tour âm nhạc cải cách từ miền Trung ra miền Bắc bằng xe lửa. Dựa trên dữ kiện này, lịch sử tân nhạc Việt Nam cần phải được ghi chú lại, với bài hát đầu tiên được tìm thấy là tác phẩm của linh mục Đoàn Quang Đạt.

Theo ghi nhận của nhạc sĩ Trần Quang Hải, giai đoạn trước năm 1937 là thời gian được coi là tượng hình, tức chưa rõ ràng gì về âm nhạc, cũng như việc nhìn nhận. Còn với nhạc sĩ Phạm Duy (1921-2013) thì đây là giai đoạn đi tìm nhạc ngữ mới. Tức người sáng tác phải đi tìm ngôn ngữ ca từ lẫn các phương thức sáng tác cho tân nhạc Việt. Ấy vậy mà, khi nghe lại Nửa Đêm Mừng Chúa Ra Đời, người nghe sẽ không khỏi ngỡ ngàng như bài hát này chỉ mới được sáng tác gần đây bởi tính hiện đại và hấp dẫn của nó.

Những tư liệu này sẽ là cơ hội cho các nhà nghiên cứu và ghi chép lịch sử âm nhạc bổ sung vào tiến trình hình thành âm nhạc hiện đại của người Việt qua hơn một thế kỷ.

Nhưng trước mắt, chúng ta lại đón một mùa Giáng Sinh với những điều chúc lành, bên cạnh đó được nghe lại một bài hát đã có hơn một thế kỷ. Đó cũng là một món quà êm dịu của mùa cuối năm đầy gió lạnh. Món quà được gửi đến từ quá khứ trăm năm, mà ngỡ như mới hôm qua.

(tổng hợp, theo gợi ý của bs Lê Đình Phương)

4 giờ sáng, ngày mùa đông

NS-27.11-tutuChuong-in3

Suốt trong nhiều năm, tôi cứ bị đánh thức dậy bởi tiếng chuông nhà thờ cách nhà một dãy phố. Buổi sáng, khi chung quanh vẫn còn tối đen, tiếng chuông nhà thờ văng vẳng luôn trở thành một người bạn bí mật nhắc tôi về nhiều thứ, thức tỉnh tôi. Đặc biệt, những ngày cuối năm, trời miền Nam tạm gọi là mùa đông, không khí lạnh đặc. Tiếng chuông cũng âm vang lạ hơn, xa xôi hơn.

4 giờ sáng, thời khắc như bắt đầu mọi thứ ở Việt Nam. Tiếng xe máy lác đác vụt qua trên đường phố. Tiếng chổi sớm, tiếng ho của người già. Tiếng lanh canh của người bán cà phê vỉa hè đun nước. Trong ánh sáng mờ ảo đó, cuộc sống nhen nhúm dần chờ bình minh. Những bóng đèn đường lịm dần nhường chỗ cho ban mai. Và trong ánh sáng chập choạng ấy, những ngày gần đây, tôi hay nghĩ về một đôi vợ chồng già mệt mỏi thức dậy ở Hà Nội, mọi thứ qua loa để kịp ra đường lúc đông người qua lại nhất. Họ giơ cao các tấm bảng viết chữ đỏ như bằng máu với nội dung "con tôi sắp bị chết oan".

Cuối tháng 12 này, anh thanh niên Nguyễn Văn Chưởng sẽ phải chấm dứt cuộc sống của mình theo án tử hình do Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng ký duyệt. Hệ thống điều tra ở thành phố này khẳng định Chưởng là kẻ giết người, trong khi đó, nhiều nhân chứng xác nhận rằng Chưởng ở cách nơi vụ án xảy ra hàng chục cây số đã không được phía điều tra màng tới. Chưởng viết thư bằng máu nói rằng mình đánh đập, bị ép cung, nhục hình... để buộc nhận một tội mà anh chưa bao giờ phạm phải. Những lá thư mà Chưởng đã phải thức trong những đêm tối tăm của nhà ngục, thầm viết và gửi ra cầu cứu với niềm hy vọng lịm dần, do bị bao vây bởi cái ác đeo cà vạt và quân phục. Cái ác cầm gậy và roi, cái ác ngồi xổm lên sự thật và công lý.

Ông bà Nguyễn Trường Chinh và Nguyễn Thị Bích đã bỏ hết mọi việc làm ăn, cầm cố tài sản từ tám năm nay để kêu oan cho con mình. Nhiều tháng nay, hai ông bà bạc đầu, đứng trên nhiều ngã đường ở Hà Nội và giơ cao tấm bảng kêu cứu, hoảng hốt khi ngày chết của con mình gần kề. Có lúc ông bà đứng trong buổi sáng rực nắng, có lúc ông bà ngồi giữa buổi chiều đầy người qua lại, nhưng lòng người xứ Việt như lúc 4 giờ sáng, không còn một tiếng chuông nào lay động. Oan khiên và sợ hãi phải chăng đang tràn ngập đất nước này khiến ai ai cũng kinh hãi lo giữ lấy đời mình? Chỉ đến khi lời đồn về đôi vợ chồng khốn khổ này lan đi ào ạt trên mạng xã hội ảo, người ta mới bắt đầu biết đến họ, những ngày thật, gần đây.

Chưởng nói anh không bao giờ nhận mình là kẻ giết người. Dù anh bị đánh, bị nhục hình, thậm chí điều tra viên doạ giết cả người thân để ép anh ký vào lời khai theo ý họ. Nhưng bất luận Chưởng kháng cự ra sao, một thế lực bí ẩn nào đó vẫn muốn Chưởng phải chết đúng vào ngày giờ đã định, để lại cha mẹ già, vợ và con nhỏ bơ vơ.

Có cái gì đó thật mỉa mai, khi nơi trại giam giữ Chưởng có tên là Trần Phú, người tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam, qua đời năm 1931 do bị người Pháp dùng nhục hình và giết chết. Giờ thì người Việt đã thừa kế tất cả những gì mà họ đã từng lên án và dùng nó để làm bằng chứng lật đổ một chế độ. Trong tương lai của một Việt Nam văn minh, biết đâu di ảnh của cố tổng bí thư Trần Phú có thể sẽ nằm không xa với tấm vải thêu bằng tăm tre lời kêu cứu của Nguyễn Văn Chưởng, về một ký ức tội ác và oan khiên của con người đã từng trãi qua trong thời đại của mình.

4 giờ sáng, những ngày mùa đông này ở Hải Phòng, tử tù Nguyễn Văn Chưởng đang làm gì? Những ngày ghê sợ nhất là những ngày cái chết gần kề mà người ta vẫn còn thoi thóp một suy nghĩ về công lý. Ba mẹ già của anh ở Hà Nội cũng đang thoi thóp hy vọng trên các ngã đường mỗi ngày. Chúng ta, những công dân cũng đang thoi thóp và bất lực chứng kiến bi kịch của một gia đình, như một bi kịch của đất nước mình mà không thể hét lên, gọi ngừng lại, đòi phế bỏ vở diễn đầy đau thương đó.

Trại giam thường đánh thức tử tù vào 4 giờ sáng, vào ngày phải chết. Có thể 4 giờ sáng những ngày mùa đông sắp tới lại là một vết khắc nữa, đòi phải được vay-trả trong hành trình sống khắc khoải của đất nước này. Nhưng có thể 4 giờ sáng nào đó, là ngày oan khiên khép lại, và cái ác như ánh đèn nhân tạo phải tắt dần, nhường chỗ cho bình minh thật sự soi sáng.

Như bao con người khác đang bất lực theo dõi sự kiện của tử tù Nguyễn Văn Chưởng, tôi cũng không đủ sức để làm nên điều kỳ diệu nào với một lời kêu oan. Nhưng tôi và bạn không thể không nói, không thể không hy vọng. Phần nhân tính ít nhất mà bạn có, dù bất lực, là phải ghi nhớ. Ít ra, mai sau chúng ta vẫn có thể đứng dậy và trở thành nhân chứng đáng giá của thời cuộc. Nhân chứng của sự thật dù trãi qua rêu phong. Dù chỉ làm một tiếng chuông cô độc, vẫn hơn là hoà tan mình, thoả hiệp trong đêm tối vô tận không thức tỉnh.

Tham khảo thêm
Bài trên báo Tuổi Trẻ, ngày 23/12/2014

Bài trên báo Người Đưa Tin

10850214_10153472316430620_6343133601537779638_n

va2.donkeucuu

Saturday, December 20, 2014

Những bài hát Giáng sinh chưa bao giờ cũ

Kể từ sau khi bài Silent Night ra đời (1818), bài hát được ghi nhận là tác phẩm lâu đời nhất viết cho lễ Giáng sinh, thì đến nay đã có vô số những bài hát được sáng tác dành cho dịp lễ cuối năm này. Mỗi dịp Giáng sinh về, con người ở khắp nơi trên thế giới lại có dịp ngẫu hứng thêm biết bao những giai điệu mới. Thế nhưng lạ thay, vẫn có những bài hát đặc biệt luôn luôn vang lên, lặp lại nhiều lần mà không thấy chán trong trái tim mỗi người. Những bài hát xa xưa mà không bao giờ cũ.

Có những người đã đi qua hàng chục mùa Giáng sinh, nhưng mỗi năm, khi bài Jingle Bells cất lên, mọi thứ trong đời như được nhấn phím f5 trên máy tính, lại tươi mới và xao xuyến như thuở ban đầu. Nhà phê bình âm nhạc Rachel Pomerance Berl, khi viết trên tờ Huffington Post đã đặt ra câu đố rằng "những bài hát nào có sức mạnh hơn cả những bài hát?", câu trả lời nhanh, đó là nhạc Giáng Sinh. Đôi khi người ta không còn lắng nghe âm nhạc trong mùa Giáng Sinh bằng sự thưởng thức thông thường, không còn phân tích về logic đời sống của bài hát đó nữa, mà chỉ còn bí mật tìm những người đồng điệu với mình trong một khoảnh khắc. Âm nhạc như một thông báo về những ngày rất quen mà trái tim cần đập chậm lại và thêm những nụ cười. Sức quyến rũ kỳ lạ của nhạc Giáng sinh là vậy.

Trong lời giới thiệu mở đầu cho chương trình nhạc Giáng sinh năm ngoái, Jonathan Henley, người cầm trịch của đài phát thanh Road Signs (Mỹ) với giờ âm nhạc có tên WEND trên băng tần 106.5 FM đã nói rằng "chào mừng con người đang bước vào khoảng thời gian của lý lẽ không tồn tại". Lúc nay, chúng ta chỉ cần lắng nghe âm nhạc như để tự nhắc mình là ai, ý nghĩa của cuộc sống này là gì. Nhiều cuộc điện thoại sau lời giới thiệu đó gọi vào, gửi tặng nhạc đến người thân, tiết lộ cho biết rằng ngoài những người Công Giáo, còn có người Do Thái hay Phật Giáo... Đỉnh điểm của Giáng Sinh là nơi tập hợp mọi niềm tin tinh thần, là lòng nhân ái và chia sẻ, nên con người không biên giới đã cùng gặp nhau nơi đó.

Sẽ chẳng còn ai quan tâm đến việc bài Jingle Bells chưa bao giờ thật sự là một bài nhạc dành cho Giáng sinh cả. Thực tế là bài hát này được nhạc sĩ James Lord Pierpont ở Mấchusetts viết cho dịp lễ Tạ Ơn. Và cũng không ai quan tâm rằng bài Rudolph The Red-Nosed Reindeer (ở Việt Nam vẫn hay dịch là Ông Rudolph mũi đỏ) lại là một bài Giáng Sinh được viết nên bởi một nhạc sĩ Do Thái Giáo, tên là Johnny Marks. Giáng sinh làm nên niềm vui của những người có đạo, nhưng âm nhạc thì nối dài vòng tay làm nên một mùa Giáng sinh an lành cho cả thế giới. Âm nhạc phá bỏ mọi ranh giới tín ngưỡng, gợi lại những giấc mơ đẹp và sẽ không bao giờ cũ trong trái tim con người.

Khác với những thể loại âm nhạc khác, nhạc Giáng sinh có giá trị như một bước nhảy alpha, vượt thời gian trong khoa học vũ trụ. Con người có thể đột ngột chuyển vùng tồn tại của mình, quay trở lại những kỷ niệm vui buồn trong đời mình đã qua khi nghe thấy những giai điệu này. Không có một liều thuốc estacy nào đủ mạnh để tạo được những cảm giác khi ngày cuối năm đến, tiếng chuông nhà thờ và âm nhạc vang lên: con người trở nên mộng mơ hơn trong thực tại, và thanh bình ập đến trong trái tim mình.

Nhạc Giáng sinh gần với người Việt hơn, kể từ khi có một trào lưu Việt hoá dòng nhạc này. Sớm nhất, được biết là hai ca khúc Hang Bê-Lem của nhạc sư Hải Linh và Cao Cung Lên của linh mục Hoài Đức. Cả hai bài này đều được ghi nhận cùng xuất hiện vào năm 1945. Đó cũng là giai đoạn của tân nhạc tiền nội chiến Việt Nam phát triển mạnh mẽ nhất. Trước đó, các bài hát Giáng Sinh phần lớn đều được hát bằng tiếng Latin hay tiếng Pháp nên ít người hát được. Vì vậy việc viết và dịch lời Việt bùng nổ. Đến thập niên 60-70 thì những bài tình ca Việt nhân dịp Giáng Sinh đã xuất hiện rất nhiều. Người ta bắt đầu ngâm nga những bài nhạc Việt có hình ảnh Giáng Sinh, xao xuyến đem vào ký ức thế hệ mình. Trong đó phải kể đến Bài Thánh Ca Buồn của Nguyễn Vũ, Hai Mùa Noel của Đài Phương Trang, Con Quỳ Lạy Chúa Trên Trời của Phạm Duy... So với nhiều nước ở Đông Nam Á, Việt Nam là một quốc gia hết sức giàu có giai điệu và niềm vui trong mùa Giáng Sinh. Thật thú vị khi nhiều nơi đang hát vang lời ca tràn đầy tuyết lạnh, nhưng thực tế thì người ta có thể toát mồ hôi với ngày nhiệt đới.

Trong khi những bài hát mới về Giáng Sinh có thể bị lãng quên nhanh, thì ngược lại những bài hát truyền thống thì luôn được đợi chờ trong trí nhớ. George Michael, một trong những ca sĩ thời hiện đại, hiếm hoi được ghi nhớ với bài Last Christmas trong danh sách những bài hát cùng vang lên trong mùa Giáng Sinh, đã tóm tắt "những bài hát vui tươi nhưng thầm lặng nhắc về hạnh phúc đã mất. Và ngay khi bạn từng khổ đau trong quá khứ, thì giờ đây nhớ lại, đó cũng là một cảm giác hạnh phúc của đời người, mà hạnh phúc thì không bao giờ cũ".

Thursday, December 18, 2014

Ngày buồn hiu với bài hát cuối

4583550938_1c6e3276da_z

Còn 4 ngày nữa đến Lễ Giáng Sinh thì Việt Dzũng mất. Anh không kịp mừng lễ Chúa sinh ra lần thứ 55 trong đời mình, không kịp trình diễn 2 bài hát cuối cùng mà anh thu âm tại California. Hai bài hát về đức tin của anh, nỗi sợ hãi và phấn khích, trong đó có những câu hát như lời trối trăng sau cùng.

Ngày 20-12-2013 đó, mới đây mà đã một năm. Tại nghĩa trang Good Shepherd Cemetery, cỏ đã xanh quanh bia mộ. Nụ cười của anh dừng ở tại phiến đá. Bình yên hay khắc khoải, khó ai biết được. Cũng giống như Emily Bronte viết lời kết trong Đỉnh Gió Hú, rằng cỏ xanh và con mắt trần gian khó mà biết được nỗi niềm của người nằm dưới bia mộ đó, có thật sự an nghỉ hay không?

Từ ngày tháng ấy, người Việt hải ngoại ở hai miền Nam Bắc California không còn nghe được tiếng nói của Việt Dzũng trên đài phát thanh mỗi sáng. Giọng cười sảng khoái và cách đọc tin như cấu níu người nghe của anh "mời quý vị quay lại với Việt Dzũng"... như vẫn âm vang đâu đó. Vốn bởi, người ta đã quá quen thuộc sự có mặt của anh bất kỳ trong một chương trình ca nhạc hay sinh hoạt cộng đồng. Khi nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng viết về niên kỷ hồi sinh với một Việt Nam đã dựng nên bên ngoài Việt Nam, theo đó đã có những con người không thể nào quên  của lịch sử, của phận người vận nước, như Việt Dzũng.

Mấy năm trước, một lần được xem anh và ca sĩ Nguyệt Ánh hát ở Houston. Giữa chương trình đang rất sôi động, đột nhiên có khoảnh khắc Việt Dzũng buông micro, thừ người ngay trên sân khấu. Mắt anh buồn. Tôi chụp được giây phút đó, đưa cho anh xem lại và hỏi có phải anh mệt không? Anh cười, "Anh nghe bài Em có mơ một ngày về của chị Ánh, rồi tự hỏi anh có kịp về quê hương mình không".

Việt Dzũng đầy thứ bệnh trong người. Bác sĩ nói bất cứ lúc nào trái tim hay mạch máu của anh đều có thể ngừng lại không cần lý do chính đáng. Vì vậy mà Việt Dzũng tận dụng mọi thời cơ có được trong đời mình để lăn xả vào hoạt động, để sáng tác, hát, gầy dựng một điều gì đó. "Em nghĩ anh có kịp về được Việt Nam không?". Thật khó mà nhìn thẳng vào mắt của anh để trả lời đúng cho câu hỏi này. Dù tôi gật đầu, nhưng ánh mắt thông minh vẫn luôn đầy giễu cợt của anh như xoáy vào, im lặng và thấu hiểu. Đầu năm 2013, trong chuyến lưu diễn ở Úc, Việt Dzũng âm thầm cho in trên mặt đĩa lời chia tay khán giả ở Châu Đại Dương, nói rằng đây sẽ là chuyến lưu diễn cuối cùng của anh.

Về Việt Nam, vẫn là một trong những câu chuyện hay được gợi lên từ Việt Dzũng. Nó cũng là sự khắc khoải của rất nhiều người Việt lìa xa quê hương mà linh hồn như vẫn quẩn quanh nơi chôn nhau cắt rốn. Mỗi khi chứng kiến hay nghe về đề tài này từ những người vọng quốc, tôi vẫn hay rờn rợn trên da, thấm thía một nỗi buồn khó tả. Ngay cả nhạc sĩ Phạm Duy, một con người vẻ như bất cần thế giới, trước khi được chính thức về nước, cũng đã từng thì thầm hỏi qua điện thoại rằng "ở Việt Nam còn ai nghe nhạc của tôi không?". Nghe mà tê tái, không phải cho riêng ai, mà cho một dân tộc và tổ quốc quá đoạn trường.

Trong một lần đi diễn ở Sacramento, Việt Dzũng nghe đồn có một ông thầy Miên coi bói rất hay. Tò  mò, anh chạy đến gặp ông thầy, và chỉ hỏi một câu "khi nào tôi có thể về Việt Nam?". Ông thầy không biết Việt Nam là gì, cũng chẳng màng thế sự, chau mày nói rằng "nếu ông sống qua năm tới, thì 2015 ông có thể về được". Chuyện tưởng như đùa, nhưng Việt Dzũng đã không đi qua được ngày tháng đó. Đường về đã gần qua nắng gió, nhưng xa hơn trong trần thế.

Khi bắt đầu mệt hơn thường lệ, Việt Dzũng nhờ hoà âm gấp hai bài hát để anh hát khi còn sức. Một bài có tên Cùng đi với tôi do anh viết, và bài Đừng sợ của một tác giả trong nước. Trong bài Đừng sợ, nhạc sĩ Việt Dzũng viết lời 2 cho bài hát này, mà anh nói rằng ngẫu hứng từ các sự kiện của giới Công giáo. Còn bài Cùng đi với tôi thì lại là một ca khúc như lời từ biệt. Giọng hát anh yếu hẳn trong bài hát này, dù thu sửa nhiều lần. "Vậy thôi, anh không làm hơn được nữa rồi", Việt Dzũng lắc đầu.

Đừng đi đằng trước xa tôi
Tôi sẽ không theo kịp bước chân người
Đừng đi đằng sau lưng tôi
Tôi sẽ lầm đường lạc lối

Một năm sau, nghe lại bài hát này. Chợt nhận ra anh đã đi rất nhanh. Đã không thể bắt kịp anh rồi.

Hai bài hát như nói thay cho cảm giác cô đơn của Việt Dzũng khi hiểu mình sắp bước vào một chuyến đi xa. Hát với mình, anh tự trấn an về một nỗi sợ mơ hồ của số phận. Anh xin được giao phó linh hồn cho Chúa. Và anh cũng như muốn nhắc mọi người rằng đừng quên người bạn đã chống đôi nạng đi cùng mọi người rong ruỗi qua mọi nẻo đường của yêu thương, lý tưởng và chia sẻ. Bài hát như lời gọi đến những ai quen biết, để bày tỏ, khi thấy không còn kịp nữa.

Nhưng lúc này, làm sao để nói cho anh biết rằng cuộc sống này bỗng buồn hiu, khi mỗi sáng không còn nghe giọng truyền thanh của anh trên Radio Bolsa. Gió đã lạnh ngày cuối năm. Giáng sinh về. Nghe lại bài hát cuối cùng của anh. Viết mảnh giấy nhỏ, đốt và để tro bay theo gió về hướng anh nằm, hướng biển Huntington Beach. Vài chữ để anh đọc: "Thật sự, buồn hiu".


Kỷ niệm một năm ngày nhạc sĩ Việt Dzũng mất
(20-12-2013  /  2014)

--------------------------------------------------------------------

Cùng đi với tôi

https://soundcloud.com/nhacsituankhanh/cung-di-voi-toi
Đừng sợ



Wednesday, December 17, 2014

Khi người nghệ sĩ xuống đường

image



Thật khó tưởng tượng nổi đêm cuối cùng của cuộc Cách Mạng Dù ở đường Harcourt Road tại khu Admiralty, khi hàng ngàn cảnh sát Hồng Kông được trang bị tận răng đánh đập, bắt bớ... những người biểu tình, trong đám đông quả cảm đó, có cả nữ ca sĩ Denise Ho (Hà Vận Thi). Mặc một chiếc áo thun đen và tay cầm chiếc dù vàng, gần như không trang điểm, người nữ ca sĩ lừng danh của dòng Canto-pop này bị lôi đi cùng với nhiều người khác, lẫn trong tiếng hô uất nghẹn của giới sinh viên đòi dân chủ "rồi chúng ta sẽ quay trở lại".

Đêm cuối ấy, đã có khoảng 10.000 người tham dự và chứng kiến, họ chọn cách chấp nhận cuộc đàn áp để ghi vào lịch sử nhân loại, như một chứng cứ ô nhục về một chế độ độc tài. Những giọt nước mắt của người biểu tình đã rơi trong đêm đó, từ những những người vô danh cũng như của những người rất nổi tiếng.

Không khác gì số phận của các ngôi sao như Châu Nhuận Phát, Lưu Đức Hoa, Lương Triều Vỹ, Hoàng Thư Sinh... Giờ đây tên của ca sĩ Denise Ho đã nằm trong danh sách đen của Bắc Kinh, bị coi như những kẻ cứng đầu và nguy hiểm. Họ sẽ bị ngăn cấm, bị đe doạ... trong cuộc sống ngày thường cũng như có thể bị ám hại  bởi chính quyền của ông Tập Cận Bình trong nay mai. Với người nữ ca sĩ 37 tuổi này, có lẽ cô đã hình dung trước tất cả mọi thứ khó khăn nhất sẽ đến, nên chọn lựa của cô là dứt khoát đứng về phía giới đấu tranh đòi dân chủ cho Hồng Kông. Tờ L.A Times mô tả rằng khó ai tin được rằng người nữ ca sĩ từng có đến 15 giải thưởng âm nhạc, sự nghiệp rất vững chắc này lại len lỏi trong đám người biểu tình, tranh phục đơn sơ nhất, để cất tiếng đấu tranh, chấp nhận rủi ro từ việc Bắc Kinh tức giận và trả thù hèn hạ.

Ở rất nhiều nước sống trong chế độ độc tài, đặc biệt tồi tệ là ở Châu Á, những nghệ sĩ dám cất tiếng nói khác biệt với chính quyền, cũng đồng nghĩa với việc tự sát của nghề nghiệp hay chấm dứt cuộc sống không còn bình yên nữa. Ngay khi các ngôi sao điện ảnh Lưu Đức Hoa, Châu Nhuận Phát, Lương Triều Vỹ... bị cắt bỏ mọi hình ảnh và hoạt động trong đại lục, thì Bắc Kinh cũng lạnh lùng thông báo cho ca sĩ Denise Ho rằng toàn bộ các chương trình biểu diễn của cô từ đây về sau ở đại lục sẽ phải ngừng vô thời hạn. Tệ mạt hơn nữa, các cơ quan văn hoá của Trung Quốc đã gửi công văn đến hàng trăm công ty, tổ chức... cảnh báo rằng sẽ chịu thiệt hại nếu cộng tác với những văn nghệ sĩ đã xuống đường trong phong trào bất tuân dân sự.

Lâu nay, thị trường giải trí ở Hồng Kông bị sụt giảm lớn, nhất là sau năm 1997, khi vùng đất này được người Anh trả về cho Trung Quốc. Chế độ kiểm duyệt đã khiến cho vùng đất linh hoạt này trở nên đờ đẫn và nhàm chán so với danh tiếng từng có. Thu nhập của các nghệ sĩ Hồng Kông chỉ còn tạo ra được ở đại lục, vì họ còn chút mới lạ và không khác gì như những Hoa kiều với người dân đại lục. Với ca sĩ Denise Ho, gần đây 80% thu nhập cô có được đều là thị trường ở các điểm diễn trong đại lục. Quyết định của Bắc Kinh nhắm vào "nồi cơm" của giới văn nghệ sĩ đã tác động mạnh đến mức trong giới giải trí ở Hồng Kông, đã có nhiều người hối hả tuyên bố mình không có gì dính đến đám "phản động" ấy. Đạo diễn Vương Tinh (nổi tiếng với loạt phim Người trong giang hồ, Thần bài...) vội vã lên trang mạng xã hội Vi Bác để chỉ trích ca sĩ Denise Ho và nói rằng mình đã thôi không còn bạn bè gì nữa. Hành động này của Vương Tinh cũng chỉ nhằm bảo vệ cho loạt phim của mình mới vừa quay xong không bị tổn hại từ Bắc Kinh.

"Tất cả là vì tiền", nhà biên kịch Bằng Minh Chí bình luận vậy. Cũng vì lý do này mà nghệ sĩ saxo Kenny G đã vội vã phủ nhận thái độ ủng hộ của mình với cuộc Cách Mạng Dù, ngay sau khi Bắc Kinh đe doạ chấm dứt việc lưu diễn của ông ta ở Trung Quốc.

Sự khủng bố của Bắc Kinh đối với những người đấu tranh cho dân chủ ngày càng tăng. Sức ép dành cho giới nghệ sĩ lại mỗi lúc một nhiều hơn. Con số những nhạc sĩ, ca sĩ, nhà văn, diễn viên... ở Hồng Kông  cho đến nay bị ghi vào sổ đen là 47 người, và sẽ còn tăng nữa, trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Tân Hoa Xã còn phát đi thông báo vào ngày 2/12/2014, cho biết Tập Cận Bình sẽ tái lập chính sách cải tạo văn nghệ sĩ Trung Quốc, bằng cách cho Tổng cục đặc trách báo chí, đài phát thanh, truyền hình và phim ảnh Trung Quốc cưỡng bức các nghệ sĩ có "vấn đề" về các khu lao động xa để học tập tư tưởng lành mạnh. Các đợt cưỡng bức này có thể liên tục, cứ 3 tháng một lần. Các nhân vật như ngài Ngải Vị Vị có thể đều nằm trong tầm ngắm của cơ quan này.

Việc cất lên tiếng nói về lẽ phải, đã ngày càng thưa thớt người hơn, đặc biệt với những người được coi là trí thức hoặc có tên tuổi trong xã hội. "Nồi cơm" hay sự hèn nhát đã sản sinh ra rất nhiều lý do để thoái thác tranh đấu hoặc nguỵ biện cho việc thoả hiệp với cái ác. Trong cuộc Cách Mạng Tăng Bào (Saffron Revolution) năm 2007 ở Miến Điện, có hơn 400.000 tu sĩ và thường dân xuống đường chống lại chế độ độc tài quân sự, nhưng chỉ có 2 trong số hàng ngàn văn nghệ sĩ được ghi nhận đã bước xuống đường vì danh dự và trách nhiệm với tổ quốc là danh hài Zargana và ngôi sao điện ảnh Kyaw Thu.

Ở Hồng Kông ngày nay, người ta dễ dàng tìm thấy những gương mặt rạng rỡ nụ cười như Thành Long trong hình ảnh bợ đỡ chính quyền, hoặc những người im lặng xa lánh những ung nhọt trong đời sống với lời biện minh "lo làm ăn, ổn định để phát triển". Và cũng chính vì vậy giữa những vũng lầy danh lợi và hèn nhát, những gương mặt toả sáng như Hoàng Chí Phong, Châu Vĩnh Khang (Alex Chow)... hay nữ ca sĩ Denise Ho đã tạo nên một nguồn cảm hứng bất tận cho một thế hệ.

"Điều chúng ta tranh đấu hôm nay, là cho tương lai của Hồng Kông, cho con cháu của chúng ta. Nếu từ bỏ cuộc tranh đấu này, đồng nghĩa chúng ta từ bỏ tự do và tương lai của Hồng Kông", Denise Ho đã nói trong đêm cuối của cuộc Cách Mạng Dù, nhiều người đã khóc và thề sẽ quay lại. Gương mặt quả quyết và điềm đạm của Denise Ho đã in sâu trong trí nhớ rất nhiều người, gương mặt của một người yêu tự do và quả cảm. Và đó, có thể là một trong những nguồn sức mạnh để người dân Hồng Kông tái tập hợp và xuống đường cho tương lai của chính mình.

image

Thursday, December 11, 2014

John Lennon mang giấc mơ tặng đời sau

Hơn 3 thập niên sau tiếng súng nổ cướp đi cuộc sống của mình ở Manhattan, thành phố New York, Mỹ, có lẽ John Lennon vẫn chưa tìm thấy lời giải cho mình về một thế giới không chia rẽ và đầy thương yêu. Tuy vậy, dường như ông vẫn có một phương thức độc đáo trong việc trao giấc mơ của mình cho thế hệ sau, mỗi lúc một rộng lớn hơn.

Cuối tháng 11 vừa qua, với sự cho phép của bà Yoko Ono, tổ chức Unicef đã đỡ đầu cho việc phát hành ca khúc Imagine của John Lennon trên toàn thế giới với một phiên bản miễn phí, trong đó có những phần được chừa trống, cho người hâm mộ tải về hát cùng với tiếng hát và hình ảnh của John Lennon.

Ứng dụng mới này có mặt trên Appstore với từ khóa là TouchCast, phần âm nhạc được mix sẳn như một loại nhạc nền hoàn chỉnh, cho chuyên gia âm thanh David Guetta thực hiện. Trên trang web của Unicef có tên imagine.unicef.org, những người chủ trương nói rằng họ muốn ca khúc Imagine của John Lennon được vang lên bằng mọi thứ ngôn ngữ trên địa cầu này, như một ước mơ được chia sẻ không biên giới. Tiền quyên góp gửi vào trang web này sẽ được dùng cho quỹ vận động nhận thức vể quyền trẻ em trong cuộc sống hôm nay.

Hành động này, cũng là cách mà tổ chức Unicef, bà Yoko Ono và nhiều nghệ sĩ khác trên thế giới muốn kỷ niệm 40 năm ca khúc này ra đời, cũng như không quên ngày oan nghiệt 8 tháng 2, năm 1980, khi một gã tâm thần đã dùng súng bắn chết John Lennon ngay trước cửa nhà của ông.

Như vậy, giấc mơ về thế giới hiền lương của John Lennon sẽ được trao lại cho thế hệ sau, như cách mà ông từng nói “Giấc mơ bạn thấy một mình, đó chỉ là giấc mơ. Nhưng giấc mơ mà 2 người cùng nhìn thấy, thì đó là hiện thực”. John muốn phá bỏ một hiện thực ngăn cách con người bởi màu da, văn hóa, tín ngưỡng… Ngay trong bản video đầu tiên của Imagine mà ông tung ra, John đã xây dựng một hình ảnh đầy ngụ ý khi ông ăn mặc như một tay cao bồi, còn bà Yoko Ono thì vận trang phục của thổ dân.

Ngày 20 tháng 11 vừa rồi, tại lễ kỷ niệm lần thứ 25 của Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, các nghệ sĩ Yoko Ono , Hugh Jackman và thành viên nhóm nhạc ABBA Björn Ulvaeu đã trình diễn ca khúc này, và nhắc rằng trong thế giới tưởng chừng như văn minh hôm nay, trẻ em đang bị ứng xử tồi tệ và tinh vi nhất. Để đẩy mạnh cho chiến dịch này, một bản video công phu với sự góp mặt của hơn 100 khách mời gồm nhạc sĩ, diễn viên, vận động viên, chính trị gia… đặc biệt như Katy Perry , Adam Lambert , Courteney Cox và Lance Bass đã cùng trình diễn bài hát này.

Ít ai biết rằng Imagine được viết lên từ nguồn cảm hứng bất chợt và mãnh liệt của John Lennon, khi ông đọc quyển sách hướng dẫn hội họa của Yoko Ono có tên là Grapefruit. Với những sự mô tả trẻ thơ và lãng mạn của chủ nghĩa hippy như thi ca, Yoko Ono đã viết rằng “Hãy tưởng tượng khi bầu trời đang khóc và chúng ta là những đám mây bị tan chảy …” Từ những ý tưởng đó, John Lennon đã viết nên ca khúc Imagine. Chính ông nói rằng mình thật sự bị mê hoặc về một thế giới huyền ảo trong các trang sách đó. “Một quyển sách vĩ đại, mà tôi bị thiêu cháy tan tác trong đó”, John Lennon ghi lại trong nhật ký của mình.

Không chỉ có hát, trang web của Unicef khuyến khích những ai download bài hát này về, cùng hát, hãy ghi lại cảm nhận của mình về thế giới mình đang sống. Những người tham gia cũng có thể hiến tặng cho Unicef, để cùng tham gia các quỹ phúc lợi trợ cấp giáo dục, dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe và tiêm phòng, nước sạch và vệ sinh môi trường, thậm chí là lớn hơn nữa như bảo vệ và cứu trợ khẩn cấp cho trẻ em ở hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ .

Giấc mơ của John Lennon để lại con con người không chì dừng lại ở đó. Những người yêu Beatles hay yêu John Lennon vẫn còn gặp lại hình ảnh gương mặt ngơ ngác và đôi kính tròn ở trong chương trình John Lennon Educational Tour Bus. Những chuyến xe bus có giá trị hơn 250.000 USD, trang bị như một phòng thu thanh hiện đại đã làm những chuyến đi dài ngày trong nhiều năm để đến các miền quê ở Châu Âu, huấn luyện miễn phí các chương trình đào tạo ngắn hạn, phát hiện tài năng và yểm trợ cho ước mơ âm nhạc của thanh thiếu niên.

Chương trình tìm tài năng sáng tác âm nhạc không biên giới với tên gọi John Lennon Songwriting Contest hàng năm, vẫn mời gọi trên trang jlsc.com nhằm tìm kiếm những thế hệ kế tục sự nghiệp âm nhạc nhân loại của ông. Giải thưởng cho bài hát được chọn có thể lên đến 20.000 USD, cùng với nhiều dự án âm nhạc dài hơi khác.

Thật khó tin là sau 40 năm, một ca khúc mộng mơ lại có thể mang đến nhiều cảm hứng như vậy. Ngay cả giới khoa học cũng bị thuyết phục một cách lạ lùng. Ngày 22 tháng 10 vừa qua, một nhà khoa học trẻ ở đại học University of the Republic, Uruguay đã đặt tên cho một giống nhện lông mới (Tarantula) vừa được tìm thấy ở rừng rậm Amazon, Brazil. Fernando Pérez-Miles, tác giả nghiên cứu loại nhện lông này nói rằng ông náo nức đặt tên cho động vật được phát hiện này cái tên John Lennon, vì quá hâm mộ tác giả cùa ca khúc Imagine.



Kỷ niệm 8-12-1980 / 2014 ngày mất John Lennon

Monday, December 8, 2014

Cây gậy của Bọ Lập

Trong buổi tối ngày 6-12, khi ngồi ngẫm nghĩ về Bọ Lập, điều tôi thắc mắc là người ta có cho ông mang theo cây gậy của mình hay không. Đơn giản vì đôi chân của ông đã rất yếu, Ngay cả khi có cây gậy kề bên, cũng ít khi nào người nhà để ông đi một mình.

Bọ Lập, tức nhà văn Nguyễn Quang Lập, một trong những nhà văn hiếm hoi của "bên thắng cuộc" mà tôi giữ quan hệ với tình thương mến như đối với một nhân sĩ. Ngoài việc viết xuống, có lẽ chất giang hồ trong con người Bọ Lập còn khiến cho công việc quan sát cuộc sống của ông trở nên tự do, đa chiều hơn, chia sẻ hơn.

Tôi nhớ đến cây gậy của ông, với dáng đi khập khiễng và nụ cười đầy sảng khoái. Những ngày tháng cuối cùng mà người Việt còn vượt thoát được những hàng rào công an chằng chịt để xuống đường chống Trung Quốc đưa giàn khoan xâm lấn trên biển, Bọ Lập hăm hở đi từ nhà ở Thảo Điền đến trung tâm Sài Gòn rất sớm. Đoàn người sải bước quá, bỏ quên lão già ở sau. Thậm chí bạn bè cũng không ai đợi. Cuối buổi, Bọ Lập chống gậy khập khiễng đi về một mình, vừa cười ha hả, vừa mắng "mấy thằng không ra gì, ỷ chân khoẻ đi nhanh, bỏ tau ở lại một mình".

Những người biết Bọ Lập, ai cũng nhớ rằng các rắc rối đến với ông rất sớm, từ đầu thập niên 2000, chẳng hạn như từ kịch bản phim "Không có Eva". Hội đồng duyệt do bà Nguyễn Thị Hồng Ngát chủ trì đã phê không duyệt cho kịch bản này được dựng thành phim vì cho rằng tác giả đã mô tả một khung cảnh đời quá u tối và bi quan. Chuyện kể này nhằm để làm rõ lời bàn tán của rất nhiều người rằng Bọ Lập khôn ngoan, gần đây chọn một phương thức phản kháng để "hợp thời".

Khi tôi viết những dòng này, Bọ Lập với căn bệnh tiểu đường có thể đang nằm đâu đó trong phòng tạm giam, lạnh lẽo và không thể tiện nghi như ở nhà của ông. Tôi từng chăm sóc mẹ mình nhiều ngày. Bà bị bệnh tiểu đường nặng và chân rất yếu. Ngay cả khi chống gậy vẫn phải có người trông. Ở trong phòng tạm giam đó, tôi ngẫm nghĩ, giống như mẹ tôi, rằng ai sẽ giúp cho Bọ Lập đi vệ sinh, ngay cả khi ông có cây gậy quen thuộc của mình.

Hồi giữa năm nay, Bọ Lập gọi tôi ra quán. Ông sợ tôi không đến vì biết rõ tính tôi không thích đám đông, nên gọi bắt nhà thơ Đỗ Trung Quân làm cam kết phải đưa tôi ra cho bằng được. Anh Quân gọi, mắng "thằng quỷ, mày làm gì mà để cho ông Lập ép cả tao". Lý do của buổi gặp mặt đó, chỉ là cớ để ông nhắc cho tôi biết rằng có "nhiều người quan trọng" khó chịu mấy bài phóng sự về bạo loạn ở Bình Dương của tôi. Khi đưa bài của tôi lên blog Quê Choa, ông nhận được điện thoại giọng lạnh lùng, bảo phải tháo xuống ngay nếu không muốn gặp rắc rối. Dặn tôi cẩn thận rồi lại dúi cho mấy cuốn sách của ông đã ký tặng sẳn. Bọ Lập ra về - cũng dáng đi khập khiễng và cây gậy ấy.

Trang blog Quê Choa đem lại cho ông không ít phiền phức. Trước khi vào phòng tạm giam theo lệnh chính thức của công an, Bọ Lập cũng đã làm quen với một sự giam hãm không tuyên bố từ rất lâu trước đó. Các mục viết thường xuyên của ông trên báo nhà nước đột nhiên bị cắt bỏ, thôi không cho cộng tác nữa. Các nơi làm việc bỗng lơ là và mất dần một cách khó hiểu. Nhà văn Thuỳ Linh ở Hà Nội kể rằng các kịch bản có tên tác giả Nguyễn Quang Lập bị từ chối liên tục. Đến mức, chị phải khuyên rằng nếu chỉ để làm nghề, thôi thì Bọ Lập thử lấy tên khác xem. Quả nhiên, kịch bản mang tên vô danh tiểu tốt nào đó thì lại được duyệt ào ào.

Trước và sau khi Bọ Lập bị bắt, không khí văn nghệ Việt Nam nói chung, và Sài Gòn nói riêng, mỗi lúc một căng thẳng. Những người bị bắt dù không lạ nhưng vẫn làm cho buổi cơm chiều của giới trí thức bị thảng thốt, ngàn ngạt. Đã có lúc tin đồn trên mạng bảo rằng có một danh sách đang được countdown từng ngày. Mọi người kháo nhau và cười rất kiêu bạc rằng Solzhenitsyn mô tả Quần đảo Gulag và nơi này không khác nhau là mấy. "Nghe đồn cái phòng để sẳn đề tên tui, vừa thay bảng tên ông đó nghe", Đỗ Trung Quân cứ hay trêu Huỳnh Ngọc Chênh theo kiểu đó.

Những lúc như vậy Bọ Lập lại cười ha hả và nâng ly bia. Trang blog của ông vẫn là một trong những nơi mà hàng chục ngàn người tìm đến mỗi ngày, sức hút không thua gì một tờ báo tiền tỉ của nhà nước, nhưng lại rất gần gũi vì chỉ đưa những gì con người muốn nói với nhau, chia sẻ với nhau. Được và mất thật mong manh, nên đâu có gì quan trọng nữa.

Một ngày sau khi Bọ Lập bị tạm giam, có bài báo đánh với theo ông già đi không vững. Người viết nặc danh ghi rằng Bọ Lập là một nhà văn không có phẩm hạnh khi dám chỉ trích tổng bí thư. Tôi thì chỉ nghĩ rằng rất nhiều các nhà văn trên toàn thế giới xã hội chủ nghĩa luôn ca ngợi các tổng bí thư, cũng không có mấy ai trong số họ giới thiệu được chút phẩm hạnh nào của mình. Bọ Lập chắc cũng không màng loại phẩm hạnh đó.

Bao giờ thì Bọ Lập quay về nhỉ? Khi biết tin Bọ Lập bị bắt, tôi lại nhớ Việt Khang, Trần Vũ Anh Bình... Lẽ nào con người hát và viết, nói điều mình nghĩ lại có thể là tội phạm? Hơn nữa, đó lại là những con người yêu nước. Buổi chiều dừng chân trú cơn mưa ở vỉa hè, chợt thấy nơi đó bày bán những cây gậy bằng tre. Tôi nhìn địa chỉ và ghi lại. Biết đâu Bọ Lập khi bước ra, ông vẫn cần một cây gậy mới để đi cùng, trong vòng vây thương mến của mọi người chào đón ông.

Friday, December 5, 2014

Nghiệp dư và đạo nhạc

[caption id="attachment_463" align="alignnone" width="300"]Ảnh: theinstitute.ieee.org Ảnh: theinstitute.ieee.org[/caption]

Câu chuyện ca sĩ trẻ Sơn Tùng gần đây bị cho là đạo nhạc đang là chủ đề của nhiều lời bàn tán.
Chỉ tiếc là ngay trong giới âm nhạc chuyên nghiệp cũng không có những luận cứ vững chắc cần thiết khiến không ít khán giả phân vân.

Bài viết này không chọn đối tượng để phán xét, mà chỉ nhân một sự kiện thử tìm các tên gọi đúng của đời sống âm nhạc chuyên nghiệp - vốn lâu nay vẫn quen nhìn với góc độ giải trí, nhận định cũng thiếu sự tham khảo từ các sự kiện có liên quan ở trong nước và thế giới.

Sáng tác trong tinh thần người hâm mộ
Âm nhạc vốn là một môn nghệ thuật phức tạp của việc hình thành các tác phẩm, mọi thứ dễ bị lẫn lộn giữa “của tôi hay của anh” bởi việc tư duy các tác phẩm có thể là tác phẩm khởi tạo nguyên bản (original) hay phát sinh từ nền hay một phần từ sáng tác của người khác (inspiration).

Việc thưởng thức và quá hâm mộ luồng tác phẩm nào đó cũng là một trong những nguyên nhân của giai đoạn tự ám thị (self-suggestion) khiến mình trở thành kẻ trộm mang tính vô thức hay chủ ý, tạo ra những tác phẩm “na ná”.

Dù là một trong những nhóm nhạc được coi là huyền thoại của thế giới, nhưng Led Zeppelin vẫn vướng sâu vào nhiều vụ kiện tụng của việc “na ná” như vậy. Tay sáng tác chính của nhóm nhạc - Jimmy Page - được coi là linh hồn tạo ra các tác phẩm để đời của nhóm, nhưng cũng bị không ít nghệ sĩ trên thế giới đánh giá là một tay hết sức ranh mãnh trong việc tái tạo ca khúc của người khác trở thành của chính mình ở mức hay, nhuần nhuyễn.

Những lời đàm tiếu nặng nề về Jimmy Page và Led Zeppelin nhiều đến mức giới âm nhạc chuyên nghiệp đã tìm thấy trong album đầu tay của Led Zeppelin chỉ có hai bài hát là Good times, bad times và Your time is gonna come là sáng tạo thật sự, còn bao nhiêu bài còn lại đều lấy ý, làm lại từ các tác phẩm của người khác.

Cũng như rất nhiều tay chơi guitar ở tuổi thiếu niên, đắm chìm qua nhịp điệu blues của các nhạc sĩ da đen, Jimmy Page đã cắt xén, dán vài phần ưa thích nhớ được và gọi tên nó là nhịp điệu của mình. Rất nhiều nhạc sĩ đã kiện Led Zeppelin nhưng sự mong manh của sự thật và tráo trở, cũng như sự giàu có đương thời của nhóm Led Zeppelin khiến luật sư của Jimmy Page luôn là người chiến thắng.

Câu chuyện nhỏ này có thể là một ví dụ tham khảo ở VN, cho nhiều nhạc sĩ chuyên nghiệp, cho đến những người chế tác nghiệp dư không bao giờ có thể xướng âm và đập nhịp nổi cho chính bài của mình.

Đầu những năm 2000 đến nay, đã có không ít sáng tác bị tranh cãi như vậy, do không ít người sáng tác chịu ảnh hưởng và bị hấp dẫn về các làn sóng âm nhạc mới mẻ, ồ ạt du nhập vào trong nước.

Ngẫu hứng chuyên nghiệp và nghiệp dư
Kể từ khi nghệ sĩ Tupac Shakur tạo nên lịch sử của nhạc rap với 75 triệu CD được bán ra vào đầu thập niên 1990, việc ngẫu hứng sáng tác đã bước sang một trào lưu mới.

Có rất nhiều nghệ sĩ sáng tạo ca khúc của mình với trọn vẹn nguyên bản, nhưng cũng có những người ngẫu hứng từ sự hâm mộ một ca khúc, một ý, một nhạc nền của người khác.

Đầu thập niên 2000, cùng với trào lưu của karaoke, loại sáng tác trên nhạc nền của người khác (beat) là một thú vui của giới nghiệp dư VN, bao gồm những ca khúc hết sức cố gắng làm mới hoặc chỉ là một bài nhạc chế lời từ giai điệu có sẵn.

Và cũng từ đó, sự phân định về chuyên nghiệp - nghiệp dư, bản quyền hay bất hợp pháp đã được luật pháp quốc tế định danh rõ ràng.

Việc ngẫu hứng trên một bài hát được nghe trước đó, nếu như phần sao chép hiện rõ trên 25% nguyên gốc được xác định, là bất hợp pháp, hoặc được gọi là đạo nhạc. Và việc bảo vệ bản quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả phần hòa âm và các loại nhạc nền của người sở hữu.

Trong một ví dụ cụ thể, Nah - một trong những tay nhạc rap dòng underground rất nổi tiếng của VN - cũng có một bài ngẫu hứng từ tác phẩm Chiều một mình qua phố của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Tuy nhiên, Nah dựng hoàn toàn mới phần hòa âm cho tác phẩm của mình, làm rõ phần modify (mô phỏng, tái tạo cấu trúc) cũng như nói rõ đó là một ngẫu hứng từ một tác phẩm định danh rõ ràng. Do vậy, công việc này được nhìn nhận với góc độ chuyên nghiệp.

Còn trong trường hợp của Sơn Tùng, một bài hát viết mới hoàn toàn, nhưng dựa trên nhạc nền gốc của một ca khúc nổi tiếng (vẫn hay được gọi là beat) thì ở mức độ của người chuyên nghiệp, đúng ra phần hòa âm đó cần được cấu tạo lại với một định dạng khác và riêng để phục vụ ca khúc của mình.

Nếu quá yêu thích phần beat đó, Sơn Tùng có thể gửi thư mua bản quyền chính thức. Nếu không có phần cho phép bản quyền này, tác phẩm của anh rơi vào tình trạng bất hợp pháp. Dù chỉ dùng beat 50%, nhưng cho việc thương mại, cũng là bất hợp pháp.

Nhạc sĩ Đỗ Bảo đã nói chính xác: nếu gọi việc dùng beat bất hợp pháp của người khác để làm ra tác phẩm được chấp nhận trên âm nhạc chuyên nghiệp thì đó là vấn nạn của lịch sử. Việc ăn vay vào phần sở hữu trí tuệ của người khác để làm ra cái của mình, vốn là những trường hợp của nhiều loại hàng nhái rẻ tiền của Trung Quốc mà người tiêu dùng vẫn phản ứng.

Đây có thể là tiền đề hủy hoại mọi thứ mang tính nguyên tắc của phát triển, ví dụ các hãng karaoke sẽ không bao giờ cần phải trả tiền bản quyền âm nhạc nữa, vì vin vào lý do người hát chỉ chế lời mới trên đó chứ không hát theo nguyên bản.

Thường thì sự kiện như của Sơn Tùng sẽ ít người quan tâm vì đó là chuyện ngẫu hứng trong môi trường nghiệp dư, nhưng chính sự non kém trong nhận định của các nhà sản xuất cũng như truyền thông đã khiến “bài hát mượn beat” này bị búa rìu dư luận của thị trường chuyên nghiệp, vốn vẫn có những quy tắc rõ ràng của nó.

Lâu nay những sự kiện như Sơn Tùng hay nhiều sáng tác khác vẫn bị gọi theo nhiều cái tên như bất hợp pháp, ăn cắp hay đạo nhạc... Thật ra đó chỉ là những từ ngữ mô tả theo khía cạnh của phía phát ngôn, đôi khi pha trộn thêm cảm giác tức giận trước việc một thị trường âm nhạc đang quá hỗn loạn.

Bên cạnh đó, giới chuyên môn âm nhạc với những người có vị trí cầm cân nảy mực lại chưa chứng tỏ được sự nhanh nhạy hay cập nhật của họ để đối phó với tình hình, mà vốn không có gì là phức tạp.

Các trường hợp gây tranh cãi trong âm nhạc VN cũng không khác gì trên thế giới. Thỉnh thoảng có sự kiện được minh bạch, nhưng cũng có những sự kiện dây dưa vô thời hạn, bởi không ít tác giả khi sa vào sai lầm thường hay chạy chữa bằng nhiều cách, thậm chí dựa lưng vào sự hâm mộ thiếu chuyên môn của khán giả. Các tranh cãi sẽ bất tận.

Nhưng vẫn có một sự thật khác ở phần sâu thẳm trong tim tác giả. Nếu với sự minh bạch và chân thành, khán giả có thể nghe thấy phần trả lời từ trái tim của một nghệ sĩ, hoặc họ chỉ còn nghe thấy tiếng vọng của phần bóng tối trong trái tim đó.

----------------------------

Phần mềm xác định việc đạo nhạc

Trong một vụ kiện về âm nhạc ở San Francisco mới đây về việc một nhạc sĩ đồng quê cho rằng đã chép lại gần như 50% một bài dân ca cổ và gọi nó là tác phẩm của mình, các luật sư đã phải nhờ đến công cụ Fraunhofer IDMT.

Đây là một phần mềm gần như duy nhất để chuyển tất cả nghi án thành kỹ thuật số và so sánh.

Sự giống nhau của các giai điệu có thể xác định từ tám khuôn nhạc đầu của văn bản, cũng như Fraunhofer IDMT có thể nhận ra sự ăn cắp về hòa âm cho đến phần phát triển chủ đề chính.

Thường thì các kết quả xác định đạo nhạc dù có máy móc nhưng vẫn phải có các nhạc sĩ phân tích tham gia. Chính do tính chuyên môn sâu nên các vụ kiện này thường tốn kém rất nhiều.

Tính tự ám thị cũng là một trong những giá trị quan trọng mà đôi khi có cả sự tham gia của các nhà phân tâm học.

Thursday, December 4, 2014

Có mẹ, trong đêm dài trên quê hương

me hai2

Đêm ngày 5 tháng 12, chắc sẽ có 2 người không thể nào ngủ được, đó là hai mẹ con tử tù Hồ Duy Hải. Họ không nhìn thấy nhau, nhưng những giọt nước mắt chảy xuống sẽ có cùng một cảm xúc của đau thương và hy vọng.

Anh Hải chắc hẳn phải khóc ngàn lần, và cám ơn tạo hóa đã ban tặng cho anh một bà mẹ tuyệt vời. Người mẹ rất đỗi bình thường như hàng triệu người mẹ Việt Nam trên đất nước này, nhưng giữa nguy khốn, bà hóa thân thành Phật Bà Quán Thế Âm, hóa thân thành Đức Mẹ Maria, hóa thân thành một kẻ điên khùng bất chấp tính mạng… để lăn xả vào giòng tuyệt vọng, kéo đứa con mình khỏi án tử hình.

Người đàn bà với khuôn mặt không có gì đáng nhớ ấy đã khiến thế giới phẳng của những người viết và đọc tiếng Việt phải xao xuyến. Chỉ trong một vài ngày, gần như hình ảnh của một phụ nữ chan chứa lệ với tấm biểu ngữ kêu oan cho con mình đã được chuyền đi từng trang facebook, trở thành một sự kiện nóng bỏng đến mức giới truyền thông nhà nước cũng phải quan tâm và cùng lên tiếng đòi xét lại vụ án của tử tù Hồ Duy Hải.

Nếu là một kịch bản phim, thì đó là một bộ phim nghẹt thở cho đến phút cuối. Ngay khi những dòng chữ viết tay của ông Lê Quang Hùng, Phó Chánh Án tòa án Nhân Dân tỉnh Long An xác nhận việc ngưng thi hành án vào chiều ngày 4 tháng 12, mọi thứ bùng nổ thành một niềm vui chung của đám đông. Trong rất nhiều ngày, Tòa án uy nghi của tỉnh Long An vẫn lạnh lùng im lặng trước tiếng kêu gào lạc giọng của bà mẹ về những điều oan ức bị gán trong cáo trạng, dẫn đến án tử của con mình. Trong những bản video ghi lại, tràn ngập người xem trên You Tube, cho thấy bà Nguyễn Thị Loan bị xô đẩy bởi công an gác cổng, bị miệt thị bởi các bài báo chủ trương tuân phục các án lệnh mà không tìm hiểu.

Mỉa mai thay, bà mẹ đó đã làm tất cả, tìm đủ mọi chứng cứ cho thấy kết quả điều tra bị đánh tráo, lẫn các kết luận sai về mẫu máu, tóc vân tay… của con mình để xin trình lên tòa án, xin được xét lại những điều kỳ lạ đang áp đặt cho con bà. Một người đàn bà nhỏ nhắn, yếu đuối đã hành động như thay một bộ máy tư pháp để chỉ xin những người có trách nhiệm ghé mắt qua. Bà Loan đã trãi qua nhiều đêm rất dài không ngủ, bà đã khóc cạn nước mắt. Đổi lại, bà chỉ nhận được một câu trả lời từ phía tòa là muốn con mình được xử tử bằng súng hay tiêm thuốc độc.

Từ câu chuyện của người tử tù Nguyễn Thanh Chấn cho đến Hồ Duy Hải, quy trình tố tụng của tòa án Việt Nam đang bộc lộ những mảng tối ghê sợ. Ép cung, tra khảo, thay đổi kết quả điều tra… tất cả mọi thứ lộ dần. Con người không tìm thấy công lý trước tòa án của quê hương mình, mà chỉ thấy sự sợ hãi và nhận thức rõ thêm thân phận mình không là gì. Lúc này, đang có bao nhiêu án oan đang rãi khắp các trại giam Việt Nam? Bao nhiêu tử tù đang cay đắng vì không thể tìm thấy công lý cho mình? Đêm 5 tháng 12, Hồ Duy Hải có thể đã khóc trong trại giam vì hạnh phúc tạm thời, nhưng có bao nhiêu tù nhân đang câm lặng rơi nước mắt đau tủi cho phận mình?

Có tin rằng, lệnh hoãn thi hành án ngày 4 tháng 12, không phải đến tay bà Loan đầu tiên, mà đến trước ở giới truyền hình. Thậm chí, người ta đã định chỉ đến giờ phát hình buổi tối mới công bố như một show diễn gây xúc động, tạo bất ngờ cho bà Loan. May thay sự đồi bại giả định đó đã không diễn ra.

Nếu phải cảm ơn ai đó cho phần đầu của vở kịch công lý này, thì đó là đám đông vô danh trên thế giới phẳng. Họ đã làm tất cả để cứu sống một mạng người, đã cùng rơi nước mắt và khổ đau cùng một bà mẹ quê chưa bao giờ giáp mặt trước đó. Trong những đêm đầu tháng 12, đến tận 2 giờ sáng vẫn có những status mới trên facebook truyền tin, kêu gọi, nhắc nhau ký tên vào bản petition đòi xét lại vụ án Hồ Duy Hải. Hành động của viên phó chánh án hay ông chủ tịch nước rất thức thời khi quyết định hoãn phiên xử tử, nhưng mặt khác, đó cũng là một chiến thuật, tránh một cuộc khủng hoảng cho một hệ thống đã lụn bại trước sự tức giận của đám đông ngày càng lớn và khó kiểm soát.

Nhưng câu chuyện vẫn chưa dừng ở nơi đây. Hoãn thi hành án, tức làm giảm sự căng thẳng của vấn đề, nhưng chưa có nghĩa là công lý đã được thực thi. Mọi thứ vẫn còn ở phía trước. Đêm vẫn còn rất dài trên quê hương này, và trong trái tim lương thiện của mỗi con người Việt Nam vẫn cần thắp lên một tia sáng cho hy vọng và công lý. Có lẽ chúng ta vẫn sẽ còn thấy bà Nguyễn Thị Loan ôm biểu ngữ đứng trước tòa nhiều ngày tháng nữa, cho đến khi sự thật được tìm thấy. Hãy cảm ơn bà mẹ đó, và ngưỡng mộ như đó là mẹ mình. Vì khi bị bao vây giữa đêm đen tuyệt vọng, ơn trên đã ban tặng cho chúng ta một thiên thần với tên gọi là mẹ.

Kể cả những viên công an đã xô đẩy bà Loan trước cổng tòa án, các tác giả bài viết phụ họa cho án tử của Hồ Duy Hải, thậm chí cả những nhân viên đã làm sai quy trình trong vụ án của Hồ Duy Hải… hãy tự cám ơn đời mình, vì một lần được chứng kiến điều kỳ diệu từ người mẹ.

Tuesday, December 2, 2014

Tôi đang mơ giấc mộng dài

16448702-mmmain

Đã 40 năm bài hát Imagine của John Lennon, bài hát ao ước đầy thơ mộng của con người về thế giới không hận thù và sẻ chia lại có dịp nhìn thấy chính mình qua sự kiện xung đột giữa dân chúng và cảnh sát ở Portland, Oregon, Mỹ.

Cuộc biểu tình đòi công bằng cho một thanh niên da đen Michael Brown tại Ferguson, sau khi anh này bị một cảnh sát viên da trắng Darren Wilson bắn chết và được miễn truy tố đã khiến bùng nở hàng loạt các cuộc tuần hành, thậm chí đã xảy ra nhiều cuộc xung đột. Tuy nhiên, vấn đề không phải là vụ án về công bằng cho một người da đen, mà chỉ là vết thương về chủng tộc chưa bao lành vẫn âm ỉ và rách toạc. Nhiều cuộc bạo động đã xảy ra, cảnh sát đã phải dùng đến hơi cay và bắt bớ hàng loạt để mong đem lại bình ổn trong thành phố.

Ngày 25/11, trong cuộc biểu tình ở Portland, Oregon, những người tuần hành cũng mang trong mình đủ mọi cảm giác: hận thù, tức giận, chia rẻ, sợ hãi và liều lĩnh… để xuống đường Một cậu bé da đen ôm tấm bảng Free Hugs với dòng nước mắt chảy dài sợ hãi khi thấy đám đông chung quanh mình cũng như những cảnh sát chống bạo động đã trở nên quá căng thẳng. Bất ngờ, một viên cảnh sát chống bạo động khi nhìn thấy hình ảnh đó, đã tiến tới gần và hỏi vì sao em khóc, và sau đó cả hai đứng ôm nhau giữa đám đông. Mọi thứ như bị ngừng lại, xao động trong tất cả mọi người, Khoảng khắc mà sự tức giận hay điên cuồng vụt mất, thay vào đó một cảm giác ấm áp và tự vấn lương tâm.

Câu bé da đen Devonte Hart, 12 tuổi và viên trung sĩ cảnh sát Bret Barnum đã làm nên sự kiện độc đáo của ngày hôm đó. Cuộc biểu tình đã dừng lại. Bức ảnh được nhà nhiếp ảnh trẻ người Việt, Johnny Nguyen, 20 tuổi, chụp được khoảng khắc ấy và gửi đến cho tờ The Oregonian, tờ báo được nhiều nhiều quan tâm nhất của bang. Chỉ vài giờ sau khi bài viết tường thuật và bức ảnh của John Nguyễn xuất hiện, đã có hơn 150.000 lượt chia sẻ. Mọi giới truyền thông ở Mỹ đều đưa lại bản tin này như một sự thức tỉnh bất ngờ. Elwood P. Suggins, một cư dân của Oregon nói rằng ông ta tiếc rằng mình không ở trong bang chấm giải Pulitzers để trao giải thưởng của năm cho John Nguyễn và nói rằng mọi người hãy đọc câu chuyện này mà đừng quên cầm sẳn khăn giấy, vì bạn có thể rơi nước mắt sau đó.

Chuyện kể rằng khi viên trung sĩ cảnh sát Bret Barnum tiến tới và hỏi Devonte Hart tại sao lại khóc, câu bé nói rằng cậu ta đang sợ hãi trước khung cảnh bạo lực đang diễn ra, và cậu nói rằng mình sợ cảnh sát sẽ dùng bạo lực với những đứa trẻ da đen đang tuần hàng như mình. Viên trung sĩ thở dài và nói “Phải rồi, chú hiểu, chú xin lỗi cháu”. Sau đó Bret Barnum hỏi rằng ông ta có thể ôm thật chặt Devonte Hart không.

Johnny Nguyễn kể rằng ngay hình ảnh đó diễn ra, một luồng cảm xúc kỳ lạ dâng lên trong đám đông. Anh nói rằng còn nhìn thấy một thiếu niên khác đang cầm tấm bảng Free Hugs tương tự như Devonte Hart, đứng từ xa nhìn lại với giòng nước mắt lăn dài trên mặt.

Câu chuyện này làm chấn động nước Mỹ, cũng như rất nhiều người đã có tuổi trẻ của mình đi qua cuộc chiến Việt Nam, thời kỳ hippy phản chiến. Giữa lúc súng đạn đi tìm con người, một thế hệ hippy đã chọn cách đi tìm sự hoang dại trẻ thơ để rũ bỏ hiện thực quá khắc nghiệt của mình. Và 40 năm trước, có lẽ một niềm tin trẻ thơ pha trộn tuyệt vọng của mình, John Lennon đã viết bài hát bất hủ Imagine, để lại một ước nguyện cho thế giới mai sau.
“Nothing to kill or die for
And no religion too
Imagine all the people living life in peace…”

Bài hát 40 tuổi lại được dịp ngân vang trong lòng mọi người. Nó nhắc rằng sẽ một ngày nào đó, sẽ không có ai vì nhân danh một lý tưởng, một nền chính trị nào đó để giết hại đồng loại của mình. Nó rằng cái cuối cùng mà con người tìm kiếm, vượt ra ngoài quyền lực, vượt ra ngoài chiếm đoạt và dối trá, chỉ là sự bình yên trong cuộc sống này.

John Lennon không sống đủ dài để thấy giấc mơ của mình ra sao. Nhưng ông đang trao giấc mơ đó cho rất nhiều người còn lại. Giấc mơ về lòng nhân ái sẽ còn dẫn đường cho con người đến tương lai, giấc mơ đó, có tôi và các bạn.
------------------
(*) Free Hugs xuất phát từ ngày International Free Hugs Day, theo Wikipedia diễn giải, là một ngày hội được lập bởi nhiều tình nguyện viên tại hơn 80 quốc gia trên thế giới, vào ngày chủ nhật trong tuần thứ 3 của tháng 7. Đây là một dịp để mọi người nhận được những cái ôm thân tình từ những người khác nhằm gửi gắm thông điệp yêu thương, thân thiện giữa mọi người với nhau.

(*) tựa đề mượn ý từ một bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy
-----------------

* Thử nghe lại bài Imagien với phần trình bày thật ngắn của nữ nghệ sĩ Ấn Độ Priyanka Chopra ?

Monday, December 1, 2014

Ca sĩ Bảo Yến: Tìm tri âm giữa ánh hào quang mỏi mệt

Chặng đường dài 30 năm đó, với ca sĩ Bảo Yến, đầy những vinh quang và cũng đầy những muộn phiền mà chị từng tâm sự rằng lúc nào chị cũng bị thôi thúc bởi cảm giác nên rời bỏ.

“Giọng hát em còn hay lắm, em không nên bỏ rơi nó” - nhạc sĩ Quốc Dũng vẫn là người vỗ về và nâng đỡ tinh thần của Bảo Yến, có lẽ vì vậy mà đôi lần dứt bỏ, chị lại nghe lời người bạn đời của mình, trỗi dậy và cất lên tiếng hát.

Giọng ca độc đáo và sự kiện Chiều hạ vàng

Năm 1982, ở tuổi 24, Bảo Yến xuất hiện trên sân khấu chuyên nghiệp lần đầu tiên trong một chương trình do nhạc sĩ Dương Thụ biên tập.

Năm đó, khi vào Nam làm chương trình ở nhà hát Hòa Bình, nhạc sĩ Dương Thụ hỏi ý kiến nhạc sĩ Kim Tuấn về tình hình ca sĩ ở miền Nam.

“Ðừng nghĩ tôi quen biết rồi giới thiệu bừa, nhưng nếu anh có đủ hai giọng ca Nhã Phương, Bảo Yến thì anh sẽ có một chương trình hấp dẫn”, nhạc sĩ Kim Tuấn quả quyết.

Ðêm trình diễn đó ở nhà hát Hòa Bình, đôi ca sĩ nữ này đã đốt cháy sân khấu và làm điên đảo khán giả với một phong cách hiện đại và quyền năng. Ca sĩ Bảo Yến với những bài hát như Thành phố trẻ (Trần Tiến), Ngọn lửa trái tim (Nguyễn Ngọc Thiện)... đã sánh vai cùng với những tên tuổi lúc đó như Ngọc Yến, Kim Yến, Cẩm Vân, Họa Mi, Nhã Phương... trở thành những nữ hoàng của sân khấu thời kỳ âm nhạc Việt sau chiến tranh.

Kể từ ngày đó, truyền hình, đài phát thanh hay sân khấu... không có ngày nào thiếu vắng giọng ca của chị. Nhưng ngày mà giọng ca Bảo Yến trở thành hiện tượng, gây xôn xao ở mọi nơi là khi chị cất tiếng hát trong album Chiều hạ vàng của nhạc sĩ Hoàng Phương. Năm đó Bảo Yến 27 tuổi.

“Anh Hoàng Phương bất ngờ gõ cửa và tự giới thiệu, sau đó nhờ Yến hát giùm 10 bài mới sáng tác của anh” - Bảo Yến nhớ lại. Chị chỉ bắt đầu quen biết với tác giả Hoa sứ nhà nàng từ lúc đó và chấp nhận thể nghiệm loại nhạc bolero trong phòng thu của nhạc sĩ Quốc Dũng.

Toàn bộ album được thu cùng với sự ngẫu hứng về âm thanh, tạo thành dấu ấn độc đáo của bản ghi âm nhạc bolero đầu tiên trong nước với trống điện tử, được trích xuất từ cây đàn Yamaha nghiệp dư.

Bản master ghi âm này không đưa ra kinh doanh nhưng lại được chép ra, chuyền tay nhau nghe trong sự thích thú, rồi bất ngờ tràn ngập thị trường với sự đón nhận của khán giả khắp mọi miền.

Nhiều thập niên sau, dấu ấn của những bài hát này lớn đến mức cho đến hôm nay, khi nhắc đến Bảo Yến, nhiều khán giả vẫn còn tấm tắc nhắc về Chiều hạ vàng, Mẹ Gò Công, Chuyện tình hoa muống biển, Thương một người ở xa... Album Chiều hạ vàng cũng có thể coi là một sự kiện độc đáo trong lịch sử nhạc Việt hiện đại.

Ánh đèn màu mệt mỏi

Thành công nhanh trong cuộc đời, có được rất nhiều thứ, nhưng cũng từ đó ca sĩ Bảo Yến cảm nhận hết được mọi sự phức tạp của nghiệp sân khấu.

Xung quanh chị có cả sự ganh tị, có thị phi, có những vấp ngã... Ðó cũng là lý do sớm tạo nên một ca sĩ Bảo Yến mệt mỏi với ánh đèn màu.

Nhiều lần tâm sự với em gái là ca sĩ Nhã Phương, Bảo Yến nói mình muốn rút lui vào đời sống gia đình. Chị muốn ở cạnh chồng con và đọc sách Phật giáo như một cách để vượt qua mọi thứ.

Ngoài việc báo chí vẫn hay đăng tải những tin đồn không kiểm chứng, thế giới văn nghệ cũng đầy những chuyện thêu dệt mang tính bi kịch và hài hước về Bảo Yến khiến chị thấy mình muốn chọn cách lìa khỏi thế giới đó để được yên tĩnh.

Những người thân quen với ca sĩ Bảo Yến nói rằng chị luôn dễ rơi vào trạng thái trầm cảm. Và năm 31 tuổi, Bảo Yến quyết định từ chối mọi lời mời biểu diễn. Sân khấu vắng dần tiếng hát Bảo Yến cùng những lời đồn đãi đánh với theo, rằng chị “đã hết thời”.

Cũng có lời đồn rằng Bảo Yến đã quá giàu có nên sớm rút lui. Nhưng ít ai biết rằng những ngày quyết định ngưng hát đó, Bảo Yến và nhạc sĩ Quốc Dũng ở nhà thuê, tiền sinh sống vẫn là một nguồn thu thất thường không định trước được ngày mai.

Chín năm ngừng hát sân khấu, đổi lại việc ghi âm theo yêu cầu lại đến từ nhiều nơi. Nhiều nhà sản xuất, tác giả... tiếc nhớ giọng hát độc đáo này, cũng là một bước ngoặt khiến đôi nghệ sĩ Bảo Yến - Quốc Dũng có một cuộc sống khác, nghiêng về thể nghiệm nhiều hơn cũng như thanh thản hơn.

Nỗi niềm nghệ sĩ và khán giả tri âm

Năm 41 tuổi, ca sĩ Bảo Yến nhận lời quay lại sân khấu trong một chương trình đầy tính kỷ niệm: hai chị em Nhã Phương - Bảo Yến tái hợp với liên khúc nhạc trẻ Lê Hựu Hà - Nguyễn Trung Cang.

Âm nhạc cũng như ý nghĩa của sự trình diễn là động cơ lớn nhất khiến Bảo Yến nhận lời mời. Khi đó, chị nhận ra rằng dù không lên sân khấu trong suốt chín năm, tình yêu âm nhạc trong tim mình vẫn sôi sục như ngày mới 20.

Dè dặt quay lại sân khấu, người ca sĩ có giọng hát trầm ấm độc đáo này lại tiếp tục chinh phục khán giả. Tiếng hát trỗi lên như ánh bình minh từ những thành quách cổ lại thu hút lạ kỳ người nghe. Cho đến hôm nay, nhạc Việt không có ai sở hữu chất giọng độc đáo như Bảo Yến, giọng hát như nhung lụa, bọc kín trong đó những nỗi niềm.

Bảo Yến nói rằng bài hát mà chị thích nhất là bài Mắt lệ cho người của nhạc sĩ Từ Công Phụng. Giai điệu bài hát này như nói được nỗi lòng của một người nghệ sĩ đã đi qua mọi miền nhân gian. “Ðôi mắt em rất buồn, đôi chúng ta rất buồn, vạn câu tình cũ, xin gửi cho đời...”.

Ở một lúc nào đó, mỏi mệt, người nghệ sĩ vẫn muốn gửi lại một câu hát khẽ cho đời, mai sau. Sự mệt mỏi với thế giới sân khấu vẫn còn đó, nhưng Bảo Yến nghĩ mình sẽ phải nhận việc tham gia live show Dấu ấn như một kỷ niệm cuối. Nghe tin, từ nơi rất xa, ca sĩ Nhã Phương gọi điện về và hỏi: “Vẫn mệt như xưa hả chị?”. “Vẫn mệt như vậy, em à” - Bảo Yến nói.

Nhưng Bảo Yến kể rằng có một khán giả ở Tây Ninh viết thư cho chị đều đặn, kể từ ngày chị hát bài Nói chuyện với người trong tranh (Triều Dâng).

Cho đến tận bây giờ, người khán giả này không bỏ lỡ một bài hát nào hay một bài viết nào về ca sĩ Bảo Yến, nhưng tới nay chưa bao giờ chị được biết mặt người khán giả này. Có lẽ live show Dấu ấn này là dịp để cả hai tương ngộ.

“Ðây thật sự là một ấn tượng lớn trong cuộc đời ca hát của Yến” - Bảo Yến nói như thảng thốt, khi nhận ra. Kỳ thực, với một người nghệ sĩ, việc mình gây ấn tượng cho khán giả đôi khi không lớn bằng việc ngày nào đó nhận ra khán giả vẫn thầm lặng thưởng thức và dõi theo mình đã dài lâu biết bao.

Ðó thật sự là dấu ấn tri âm của sự nghiệp, mà chỉ có đời một nghệ sĩ chân thành mới có thể hạnh phúc tìm thấy.

Wednesday, November 26, 2014

Ai sẽ nhìn ra biển?

Bà Ruby Holt, một người vừa kỷ niệm tuổi 101 của mình ở bang Tennessee, Mỹ. Suốt cuộc đời của bà chỉ quẩn quanh ở ngôi nhà của mình và nơi làm việc. Sống bằng nghề thu hoạch bông vải, thanh bạch và cần mẫn, bà Ruby Holt đã nuôi lớn 4 đứa con của mình nhưng chưa bao giờ có dư dả để có được một chuyến đi xa khỏi nơi trú ngụ.

Trước ngày kỷ niệm bà 101 tuổi, khi được hỏi về một ước muốn cuối đời, bà Ruby Holt im lặng một lúc rồi nói bà chỉ muốn được nhìn thấy biển. Suốt cuộc đời quẩn quanh với cánh đồng và những rặng núi xa xa, bà Ruby Holt chỉ thấy biển qua truyền hình, qua tạp chí... "Người ta nói biển đẹp lắm, nhưng tôi chưa bao giờ có cơ hội đi đến", bà Ruby Holt nói với vẻ ngại ngùng, chất phác.

Cùng với gia đình, bà Ruby Holt được đưa đi đến bãi biển ở Vịnh Mexico. Hình ảnh cụ bà sống qua một thế kỷ lần đầu tiên nhìn thấy, chạm chân vào cát và nước biển đã làm cho nhiều người xúc động đến rơi nước mắt. Như một đứa trẻ, bà Ruby Holt dè dặt nhúng chân vào một làn nước biển và mỉm cười. "Lạnh há", bà Ruby móm mém nói.

Thật khó mà diễn tả được cảm nhận của con người khi đứng trước biển, cảm nhận sự vĩ đại của thiên nhiên, cảm nhận được sự nhỏ bé của mình. Nhưng với bà Ruby Holt thì cảm giác đó có lẽ còn nhiều hơn nữa vì trước khi vào cõi vô định, bà lại chứng kiến điều thật lớn lao trong cảm giác và ước muốn của mình - một ước muốn lương thiện. Cô đơn ngồi trước biển, sẽ khó có ai hơn bà Ruby khi cảm nhận sự phù du của cuộc sống, sự vô nghĩa của cuộc sống của con người, dù có sống được đến trăm năm.

Người ta kể lại rằng bà Ruby Holt ngồi im lặng rất lâu trước biển. Bà nhìn về cuối chân trời, nơi không có gì nơi đó, ngoài những làn sóng dịu dàng đuổi nhau đến bờ cát nơi bà ngồi. Những cánh chim bay thoáng qua bầu trời và ánh nắng chiều toả lan trên nét mặt răn reo của bà, như muốn sưởi ấm cho bà trong một ngày gió lạnh.

Điều làm cho rất nhiều người im lặng, nghĩ về mình, khi chứng kiến bà cụ 100 tuổi ngồi trước biển, như một cuộc từ giã đầy ý nghĩa với địa cầu. Người phụ nữ đó đã suốt trọn vẹn một cuộc đời thanh bạch, chưa biết đến bất kỳ một điều xa xỉ nào. Ấy thế khi chọn điều ước cuối, người phụ nữ đó lại chọn một điều bình dị khó ngờ. Tâm hồn của một người lương thiện sáng như một ánh cầu vồng, thanh thản đối diện trước đoạn đường cuối cuộc đời bằng nắng và gió, và sóng biển. Tất cả những điều đó không thể diễn tả hết bằng âm nhạc hay thi ca, mà chỉ bằng sự yêu mến và cảm nhận cuộc sống này.

Trong những câu chuyện biết được trong cùng một thời gian, còn có việc ông tổng thanh tra Trần Văn Truyền ở Việt Nam bị phát hiện có một khối tài sản khổng lồ. Nhiều ngôi nhà và đất đai của một viên chức nhà nước, mà theo lương chính thức công bố th oong taì chỉ có thu nhập vài chục triệu đồng một năm. Khối tài sản lớn đến mức nếu chiếu theo thu nhập công khai đó, nhiều thế hệ dòng họ của ông Trần Văn Truyền có làm cật lực thì chỉ mới mong có được một phần.

Khác với bà cụ 100 tuổi Ruby Holt, ông Truyền không nhìn thấy cánh đồng, không nhìn thấy cuộc đời của mình với sóng biển hay nắng, mà cái nhìn của ông chỉ hướng về nhà, xe, tiền của... nhưng quan trọng hơn, đó là của cải không thuộc về mình. Ông Truyền chỉ nhìn thấy những thứ nơi giam hãm cái nhìn con người ông vào những góc tù ngục nhất trong trái tim.

Bà Ruby Holt suốt cuộc đời, chưa thấy ai nói rằng bà tuyên bố mình là người lương thiện. Nhưng ông Truyền thì có. Trong cuộc chiến được giao phó trách nhiêm chống lại những kẻ bòn rút, cắn xé tài nguyên quốc gia, thụ hưởng cả từng đồng xu lẻ tiền thuế của dân nghèo Việt Nam, ông Truyền có tuyên bố nhiều lần mình là người tốt, là người sẽ không khoan nhượng với những kẻ xấu.

Có bao nhiêu người Việt nghèo khó và lương thiện trên đất nước này chưa bao giờ có thể đi xa khỏi nơi mình ở, chưa bao giờ thấy cái gì khác hơn ngoài mái tranh và ruộng vườn bấp bênh của mình? Và có bao nhiêu những người như ông Truyền, với cuộc sống không còn nhìn thấy gì ngoài dối trá, danh lợi và cưỡng bức tài nguyên của mảnh đất mình sinh ra? Khác bà Ruby Holt và những người Việt quẩn quanh ở quê nhà của mình, ông Trần Văn Truyền ắt đã đi nhiều nơi, đã từng ngồi ở những resort thượng hạng. Nhưng ngay khi đối diện với biển và tương lai, chắc ông Truyền cũng đã không còn đủ sự lương thiện để nghĩ về sự nhỏ nhoi vô minh đời mình, ngoài từ việc mơ cất thêm những mái lầu cao, và những con số để lừa gạt mọi người?

Tôi cũng tự hỏi có bao nhiêu người như ông Truyền đọc được những dòng này và suy nghĩ cho phần mình? Ai trong số họ sẽ một lần ngồi trước biển như cụ bà Ruby Holt, im lặng và nghĩ suy bằng mầm lương thiện sót lại?





IMG_1238.JPG

Wednesday, November 19, 2014

Thương nhớ thầy cô

hand-in-hand

Mấy đứa nhỏ tan trường về nhà, kể rằng hôm nay cô giáo bị mất cục nam châm đồ dùng giảng dạy. Cô giận lắm và hỏi cả lớp rằng ai đã lấy của cô. Mấy đứa nhỏ mặt mày im re vì sợ, nhìn nhau. Cuối cùng cô ra lệnh các bạn ngồi cùng bàn với nhau tự khám xét quần áo và cặp-táp cho ra. Màn kiểm tra đầy căng thẳng cho tất cả mọi người, nhưng vẫn không ai tìm thấy cục nam châm ở đâu. Lớp học giải tán sau đó trong vẻ mặt nặng nề như chì của cả học trò và người đứng lớp.

Anh bạn có đứa con học trong lớp ấy, kể lại câu chuyện với nét mặt buồn. Đứa bé không đủ từ ngữ để mô tả sự kiện đó, nhưng chỉ cần nghe qua, có thể hiểu được ngay việc bị truy xét như một tội phạm, cũng như lo sợ một ai đó trong lớp mình trở thành tội phạm, đã khiến những đứa bé mang theo trong trái tim sự tổn thương khó thể chữa lành.

Câu chuyện về cách ứng xử thô thiển trong nhà trường nói trên, chỉ là một trong vô số những điều mà nền giáo dục học đường Việt Nam từ vài thập niên nay, cứ nở rộ. Báo chí hay phân tích về việc sách giáo khoa sai lầm, đóng tiền trường cắt cổ... nhưng có lẽ vẫn còn chưa đủ, khi thiếu tìm hiểu sâu hơn về việc trẻ em được giao phó cho nhà trường sẽ có một môi trường giáo dục tâm lý và ứng xử như thế nào, năm này qua năm khác.

Trong trường hợp của cô giáo bị mất cục nam châm đó, có thể thấy rằng từ một trạng thái bất lực về kỹ năng ứng xử tâm lý giáo dục học đường, cô giáo đó đã chọn cách mô phỏng hoạt động như một trại trừng giới thanh thiếu niên để giải quyết vấn đề. Cách thức này, gần 40 năm nay, người ta có thể bắt gặp ở khắp nơi, đơn giản từ việc tổ chức các thành phần học sinh trong lớp để chỉ điểm bạn bè về vi phạm nội quy, tổ chức các nhóm kiểm soát lẫn nhau và tạo ảo tưởng quyền lực như ban tặng danh hiệu "sao đỏ"... Thoạt nhìn những công thức này có vẻ hoàn hảo và thuận lợi cho nhà trường, nhưng ở một mặt nào đó, cũng tước đi những quyền kiểm soát đòi hỏi kỹ năng ứng xử học đường đầy cao quý của các thầy cô, đồng thời cũng khiến họ dễ mắc sai lầm khi thực tế bùng nổ những vấn đề mới.

Và đã nói về ứng xử, chúng ta có không ít những ví dụ khắp trên đất nước này làm cho bất kỳ phụ huynh nào cũng phải nhói lòng. Những em nhỏ bị chính thầy cô, nhà trường của mình đưa đến công an thẩm vấn như tội phạm, thậm chí có em bị đánh đập đến thương tật chỉ vì bị nghi ngờ lấy cắp hay nói dối. Mới đây, có em chỉ vì không thuộc bài bị thầy dùng gậy đánh đến bầm dập một cách ghê sợ chỉ để thị uy. Thậm chí ghê tởm hơn, còn có cả những chuyện như hiệu trưởng ở Hà Giang biến học trò thành trò chơi sa đoạ của mình và các quan chức trong vùng. Nhà trường mất dần đi dáng vẻ cổ kính hiền hoà, thầy cô mất dần đi hình ảnh đáng quý mà người Việt vốn đã có trong tâm thức từ hàng bao đời nay.

Hàng trăm năm nay, người Việt coi thầy cô là bậc trí giả ngang hàng với cha mẹ. Kẻ không tôn kính người dạy dỗ mình thường bị chê bai. Nhưng từ những gì đã thấy của cuộc sống bốn mươi năm nay, chuyện bị tổn thương và dồn ép đã xảy ra không ít vụ học trò đánh lại thầy ngay trong lớp học, hoặc thầy trò thanh toán nhau khi vừa bước khỏi cửa trường. Điều gì đang diễn ra? Môi trường giáo dục có đang bước vào một cuộc khủng hoảng chưa có tên gọi mà con cái của chúng ta đang là một trong những nạn nhân?

Có lẽ đã đến lúc cần xét lại khẩu hiệu lâu nay vẫn được ngành giáo dục hân hoan nâng cao, là việc so sánh thầy cô như những "kỹ sư tâm hồn". Cuộc sống và nền giáo dục hoàn toàn tế nhị. Thật khó khăn để dựng được nên một con người tử tế từ nhà trường, chứ không dễ dàng như một kỹ sư tạo ra một cỗ máy. Hơn nữa, khi "cỗ máy tâm hồn" được dàn dựng công nghiệp đại trà cho các thế hệ Việt Nam, thì quả là đại nạn cho gương mặt xã hội mai sau. Có lẽ, cũng từ quan niệm giáo dục công thức như vậy mà nhiều năm nay nhiều lớp giáo viên đã khô chai, bị hụt hẩng trước cuộc sống thật, ứng xử kém và thô thiển trong vai trò của mình, vốn có giá trị như cha, như mẹ với học trò.

Đến trường, với bao thế hệ người Việt là điều gì đó rất thiêng liêng. Nhà văn Thanh Tịnh đã viết về ngày đầu tiên của một người Việt bước đến thánh đường tri thức của mình một cách ngọt ngào, đến mức rung động lòng người mỗi khi đọc lại và thương nhớ. Người thầy đầu tiên cũng cao quý khôn tả bằng việc truyền lại những gì nhân ái và tốt đẹp nhất.

Trong truyện ngắn "Thầy học cũ của tôi" được kể lại bằng ngòi bút của nhà văn Edmond De Amicis, ông thầy già về hưu khi đi ngang ngôi trường, nghe tiếng trẻ đọc bài đã ứa nước mắt vì nhớ giáo trạch, nhớ học trò, thước bảng... và tiếc vì mình đã không còn sức để mang kiến thức đến cho con người. Khi nào thì chúng ta sẽ tìm thấy lại được hình bóng những thầy cô vĩ đại đó, thật gần, trong thế giới con trẻ hôm nay

Tuesday, November 11, 2014

Từ những gì đã mất

image



Nhậu say trong một buổi tiệc, viên phó công an xã đi đến nơi có 2 người phụ nữ không hề quen biết đang ngồi, và ôm hôn. Khi bị phản ứng, viên công an này lại tiếp tục ôm hôn người thứ hai, đồng thời nói chắc nịch và thách thức rằng muốn biết ông ta “là ai” thì cứ lên công an xã.

Tức giận vì sự càn quấy này, hai người phụ nữ đi lên công an xã Giao Thạnh, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, nơi họ cư ngụ để hỏi cho ra lẽ. Không ngờ tất cả những viên chức nơi đó dù chưa kịp nghe lý lẽ, đã đều đứng về phe viên công an, nạt nộ họ như tội phạm. Thậm chí, sau đó công an ở xã còn còng tay họ và lên gối vào mặt người phụ nữ dám lên tiếng về quyền của mình.  Câu chuyện được kể lại, tưởng chừng như trong một vở tuồng tố cáo chế độ phong kiến xa xưa nào đó, thế nhưng mỉa mai thay, lại mới vừa diễn ra trước đám đông dân chúng trong một ngày tháng 11 này.

Những câu chuyện kể như vậy cứ xuất hiện ngày càng nhiều trên các trang báo. Nhiều như trên một gương mặt của một xã hội xuất hiện những vết thẹo không thể xoá và quay quắt. Những vết thẹo làm căng thêm nỗi đau về một xã hội ngày càng bất an, trong đó, thật khó tả khi nỗi bất an lại xuất hiện từ quyền con người của phụ nữ Việt Nam đang ngày càng mong manh trong thời hiện đại. Trong lời tâm sự của chị Nguyễn Thị Mai Thy, sinh năm 78, khi thấy tất cả cán bộ và công an ở trụ sở tay bắt mặt mừng với nhau và nạt nộ chị, chị Thy và người bạn đã “ngao ngán và biết chắc có thưa, trình bày thế nào cũng không ăn thua”. Khổ nổi, danh dự và niềm tin vào lẽ phải vẫn thúc đẩy chị lên tiếng và gánh lấy hậu quả.

Cũng trong những ngày đầu tháng 11, tin tức cho hay một ca sĩ nữ có tên tuổi ở Việt Nam sang Mỹ trình diễn, đã nhờ luật sư gửi thư đến một toà báo lớn ở thành phố Westminter, Mỹ để khởi kiện vì có bài viết mô tả về đêm diễn của cô với cộng đồng người Việt khiến cô không thấy hài lòng. Đơn kiện này đòi tờ báo phải xin lỗi, dựa trên quyền danh dự cá nhân và nghề nghiệp của cô. Điều đáng nói là, người ca sĩ này trước đó ở Việt Nam, nhiều năm liền cô bị báo chí và vài cá nhân trong ngành thời trang phê bình, tấn công thậm tệ, nhưng không thể nào đáp trả được. Ngay trong một xã hội mà lúc nào hình ảnh người phụ nữ cũng được ngợi ca là bình đẳng và phát triển, một ca sĩ tên tuổi cũng từng phải ngậm đắng nuốt cay chịu đựng khi bị chà đạp, thì thử hỏi tại miền tỉnh lỵ xa xôi, một phụ nữ vô danh sẽ phải làm gì khi bị bủa vây xúc phạm?

Phải chăng những người phụ nữ phải đi thật xa mới tìm thấy được công lý cho đời mình? Những dòng tin về các người chồng Đài Loan, Hàn Quốc đánh vợ Việt Nam phải ra toà, phải bồi thường… có khi lại là một niềm an ủi cho phụ nữ Việt Nam mỗi ngày vẫn nhìn thấy các bài diễn văn vô nghĩa về quyền bình đẳng giới, quyền của phụ nữ. Một người có quê cũng từ Bến Tre lưu lạc lên thành phố, kể rằng chị từng có quán cà phê yên ổn. Cho đến một ngày viên công an xuất hiện với nghi ngờ rằng chị bán ma tuý. Trong phòng thẩm vấn, chị bị đánh bằng những cuốn sách dày vào hai thái dương đến ngất đi mà không biết vì sao. Sự việc sau đó tìm ra thủ phạm, nhưng chị không hề có được một lời xin lỗi, thậm chí còn bị đe doạ là không được lên tiếng với bất cứ ai, ngay tại quê nhà của mình.

Có thể cuộc sống đã khiến con người quen với băng-rôn, quen với tiếng vỗ tay ồn ào huyễn ảo… và rồi chỉ còn biết thì thầm với những nghịch cảnh bất toại diễn ra trước mắt mỗi ngày. Trong những bài báo mô tả về việc khám phá các động mại dâm, hình ảnh và tên tuổi của những cô gái đang bị coi là kẻ xấu luôn được trần trụi giới thiệu, minh bạch như một khoái cảm của một nền báo chí nhiều nhục dục hơn công lý. Quyền và phẩm giá của phụ nữ Việt sẳn sàng bị trả về không, mỗi khi có cơ hội. Gần đây, việc khám phá một nhóm nam nữ vị thành niên ở Đà Nẳng sống quan hệ chung chạ lẫn nhau, báo chí không ngại ngần khi rõ tên họ, năm sinh từng em, trong đó có những em chỉ vừa 15, 16 tuổi. Chắc chắn dù có bị trừng phạt, những đứa trẻ đó mãi mãi không còn bao giờ tin vào hai chữ “giáo dục”, một khi chúng đã không còn tìm thấy bàn tay nâng đỡ mà chỉ có sự chà đạp thú tính và không thương tiếc.

Một trong những kiểu hình ảnh không khó gặp trên các trang mạng, là khi các cô gái bị bắt vì tội mại dâm hay bia ôm… nhiều cô gái không còn một mảnh vãi che thân phải chịu đựng cho máy quay phim chĩa vào người soi mói một cách bỉ ổi. Hoặc cũng thiếu những hình ảnh các cô gái gục đầu che mặt trong quán bar, nhà nghĩ khi công an ập vào. Nếu đó là những bức ảnh “nghiệp vụ”, thì tại sao lại có thể lọt ra ngoài và được phát tán với một niềm khoái cảm như vậy? Trên những bài báo mô tả về mại dâm, người đọc giờ chỉ còn nhìn thấy sự mô tả tồi tệ như mua vui về những người phụ nữ hơn là tìm hiểu với trái tim con người. Những kẻ mua dâm luôn được che chở, còn những người bán dâm thì bị hành hình bởi ngôn từ và hình ảnh. Có lẽ vì vậy mà nhiều năm nay, người Việt không còn khả năng nói về người Việt đủ nhân ái bằng một phóng sự của nhà báo Pháp Mathieu Bruckmuller trên tờ The 20 Minutes, khi buồn bã mô tả về những người phụ nữ nghèo khó ở quận 6, Sài Gòn, bán dâm để lấy 3,4 USD trên những chiếc chiếu tạm, gần đó là những đứa con của họ.

Dĩ nhiên, cuộc sống luôn có hai mặt của nó. Thế nhưng nếu hai mặt là hai cực nằm xa thăm thẳm nhau, thì lại là một khía cạnh khác giới thiệu về một căn bệnh của xã hội thích giả tạo và chối từ sự thật. Bớt đi những khẩu hiệu hừng hực về giá trị và quyền của phụ nữ, dành thêm thời gian thật để tôn trọng phẩm giá và công lý vốn đã quá mong manh cho những người em, người mẹ, người chị… là điều cần thiết lúc này. Biết trân trọng quyền con người, thật sự, ở từng sự kiện nhỏ nhất, đôi khi là cách gần nhất để dựng lại nền móng đã hoang tàn. Những nền móng của sự tử tế và nhân cách tốt đẹp của người Việt hôm nay, mong manh và dường như đang mất.

________________________
Tham khảo
http://baophapluat.vn/diem-nong/cong-an-huyen-say-xin-hon-phu-nu-giua-duong-cho-vui-200726.html

Sunday, November 9, 2014

Những điều đáng nhớ về “Bức tường ô nhục” ở Berlin

(nhân kỷ niệm 25 năm sụp đổ của bức tường do Cộng sản Đông Đức dựng nên ở Châu Âu)

635509686605214907-AXX-boomdouble-berlin-wall

Bức tường ngăn cách nước Đức, một bên là cộng sản và một bên là tự do, từng được gọi là “bức tường ô nhục”. Năm 1989, khi chủ nghĩa cộng sản ở Đông Đức lộ diện đủ bộ mặt là một con ác thú, yếu dần đi trong sự chán ghét của nhân dân, bức tường này đã sụp đổ, trả lại tự do cho toàn thể người Đức.

Ngày 09 tháng 11 năm nay, là ngày đánh dấu kỷ niệm 25 năm sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Giờ đây, bức tường và các rào cản chỉ còn mang tính biểu tượng, gợi nhớ một giai đoạn lịch sử từ 1961 đến năm 1989, và là biểu tượng đỉnh cao về sự căng thẳng trong cuộc Chiến tranh Lạnh.

Tại Đức, nhân ngày kỷ niệm 25 năm đập bỏ bức tường này, các nghệ sĩ đã tái tạo bức tường với quả bóng trắng chiếu sáng dọc theo con đường. 8.000 quả bóng bay được trang trí dài hơn chín dặm trong thành phố đã được thả bay lên, như một ký ức khốn khổ về cuộc sống chịu đựng chủ nghĩa cộng sản và hận thù, chỉ còn lại hiện thực tự do quý báu cho dân tộc Đức.

Tờ USA Today cho biết vài bí mật về bức tường này, đáng nhớ, mà không phải ai cũng biết.

Có một sai lầm quan trọng đã giúp dẫn đến sự sụp đổ của Bức tường, là thành viên Bộ Chính trị Đông Đức Guenther Schabowski đã nhầm lẫn một thông báo, mà ông ta nghĩ rằng cho phép người dân Đông Đức được vào Tây Đức. Lệnh có có hiệu lực ngay lập tức, ngày 9 tháng 11, 1989.

Những gì thế giới nhìn thấy về bức tường Berlin, thật sự chưa đù. Đó là hai hàng rào bê-tông với 160-yard bất khả xâm phạm ở giữa, được canh phòng ngày đêm bởi tháp canh, hầm, chó bảo vệ đi tuần, đèn pha và súng máy.

Sau khi sụp dổ, nhiều phần của bức tường đang được trưng bày ở các viện bảo tàng hoặc trong bộ sưu tập cá nhân trên toàn thế giới. Nếu ai đó muốn mua làm kỷ niệm thì một mẩu nhỏ có giá ít nhất là 10 $ trên eBay.

Đã có nhiều cuộc di cư hàng loạt của người dân Đông Đức vào Tây Đức, kể từ 15 năm trước khi bức tường Berlin được dựng lên vào năm 1961. Và mặc dủ bức tường này được ngăn lên để ép buộc người dân phải sống trong chế độ cộng sản, nhưng các thống kê cho thấy có đến 1 phần 6 dân số Đông Đức đã đào thoát qua Tây Đức, kể từ khi bức tường được dựng lên.

Tổng thống J. F. Kennedy đã đến thăm Berlin Wall vào mùa hè năm 1963, không lâu trước khi ông bị ám sát rằng tháng Mười Một. Một bài phát biểu của Kennedy được hưởng ứng nồng nhiệt khi hàm ý rằng bức tường Berlin có thể giúp toàn thế giới hiểu rõ những chia rẽ giữa các thế giới cộng sản và không cộng sản.

Năm 1987, tổng thống Mỹ R. Reagan trong một bài diễn văn, đã thách thức nhà lãnh đạo Nga Mikhail Gorbachev có thể “xé toạc bức tường này" trong một bài phát biểu gần Bức Tường, vào tháng sáu 1987.

Khi B. Clinton đến thăm vào năm 1994, ông nói với đám đông người dân Berlin, "Các bạn đã chứng minh rằng không có tường nào có thể mãi mãi giam giữ được sức mạnh vĩ đại của tự do".

Trong chuyến thăm của Tổng thống Obama vào tháng 6 năm 2013, bài phát biểu cũng nhấn mạnh rằng "Khi chúng ta có thể đứng đây ngày hôm nay, nơi bức tường bị phá vỡ, nơi một thành phố bị chia cắt, nói chuyện về một chân lý vĩnh cửu: rằng không có bức tường nào có thể chống lại lòng khát khao công lý, sự khao khát tự do, khao khát hòa bình cháy bỏng trong trái tim con người", ông nói.

Việc thống nhất chính thức của Đông và Tây Đức được ký kết vào ngày 03 tháng 10 năm 1990, gần một năm sau sự sụp đổ của Bức tường.

Âm nhạc đã góp phần quan trọng vào việc sụp đổ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Đức. Tháng 7 năm 1988, khi ngôi sao nhạc rock Bruce Springsteen trình diễn ở Đông Berlin, những phát ngôn và thái độ từ buổi hoà nhạc này đã thúc đẩy thêm sự phát triển của giới bất đồng chính kiến tại thành phố, theo tường trình của CBC. Bruce đã nói với đám đông ở Đức rằng, "tôi đã đến để chơi nhạc rock 'n' roll cho bạn với hy vọng rằng một ngày nào đó, tất cả những rào cản này sẽ được dỡ bỏ."

Nhạc trưởng Leonard Bernstein, đã cùng dàn nhạc của mình thực hiện một loạt các buổi biểu diễn đầy cảm động tại địa điểm trên cả hai bên của bức tường, vài tuần sau khi bức tường này sụp đổ. Dàn nhạc quốc tế của Bernstein bao gồm các nhạc sĩ từ bốn quốc gia đã tiến vào Berlin sau khi kết thúc chiến tranh thế giới II: Hoa Kỳ, Liên Xô cũ, Pháp và Anh. Bernstein trình diễn bài Symphony số 9 của Beethoven, và thay đổi phần cuối cùng "Ode to Joy", thay bằng bài "Ode to Freedom".

Một phần của bức tường này trở nên nổi tiếng thế giới. Checkpoint Charlie, chính thức được gọi là Checkpoint C, là biệt danh lừng danh mà phe đồng minh phương Tây đã chọn làm điểm qua lại biên giới giữa Đông và Tây Berlin.

Ngoài ra, cổng Brandenburg là một kiến trúc có từ thế kỷ 18, đánh dấu phần bắt đầu của một con đường dẫn từ Berlin tới thị trấn Brandenburg. Bởi vị trí quan yếu này mà cánh cổng được nối với bức tường Berlin trong một thời gian dài.

Việc đập bỏ hoàn toàn Bức tường Berlin kết thúc vào năm 1992, theo BBC. Đánh dấu hoàn toàn việc chấm dứt bóng ma cộng sản trên đất nước Đức.

(Lược dịch)

Wednesday, November 5, 2014

Ghi chép về những cái tên

Trên đường rong ruỗi, ngẫu nhiên quen biết một anh bạn người Việt từng là triệu phú ở Pháp. Anh kể cho tôi nghe chuyện anh làm ăn cực nhọc trong hơn chục năm, may mắn trúng nhiều thương vụ, và trở thành triệu phú ở độ tuổi 30. Thế nhưng chẳng may khi đến Mỹ, lao vào Las Vegas chơi đỏ đen, anh trắng tay và phải làm lại từ đầu.

Anh bạn kể chuyện đời, rồi nói chuẩn bị đi đổi tên "xả xui", bắt đầu một cuộc đời mới. Chuyện đổi tên ở nhiều nước trên thế giới rất dễ dàng, có nơi chỉ cần 15 phút, có nơi khó khăn thì khoảng 1 giờ. Ai thích đổi tên gì thì tuỳ. Thậm chí đặt một cái tên nghe như Châu Phi hay Trung Đông cũng chẳng sao.

Ngạc nhiên về một hệ thống hành chánh cho phép thay đổi danh tính quá nhanh gọn như vậy, tôi tò mò hỏi thêm thì bị anh bạn cười chọc. "Đó là quyền của mỗi cá nhân. Ở đâu cũng cũng vậy. Nếu anh được gọi là công dân mà không có đủ quyền cho riêng đời mình thì còn gì là văn minh?", anh bạn này nói.

Câu chuyện gợi nhớ về nghĩa trang đồng nhi ở Gia Lai. Nghĩa trang của một người bạn tự bỏ tiền ra xây từ nhiều năm trước, nay thì hai bên đồi đã có hàng chục ngàn ngôi mộ nhỏ. Những dãy mộ được phân biệt giới tính bằng cách nếu là nam thì sơn xanh, nếu là nữ thì sơn màu hồng. Anh bạn không đủ sức đặt tên riêng cho vô số những sinh linh bị lìa bỏ trước khi nhận biết thế gian như vậy, nên trên các bia chỉ ghi chung Nguyễn Vô Danh và Nguyễn Thị Vô Danh. Một chiều mưa rất lạnh và âm u, đứng giữa nghĩa trang đó, tôi tự hỏi nếu như từ lớp lớp mộ phần đó, những đứa trẻ hồi sinh, chúng sẽ rũ bùn đất, đứng dậy, ùa chạy vào cuộc đời hay nhẫn nại xếp hàng để chờ được đặt một cái tên đúng cho mình?

Nghĩa trang đó cũng không có tên, người bạn lập nên nghĩa trang cũng từ chối giới thiệu tên mình ra ngoài. Hàng ngàn sinh linh nằm trên những ngọn đồi và hoa dại cũng không có tên. Những cái tên không làm nên cuộc sống. Tên chỉ thật sự là việc xác lập ước lệ quyền nhân thân, xác lập sự khác biệt tương đối của cuộc sống giữa người với người. Nhưng ở ngọn đồi đó, ngay cả những cái chết cũng không cần có tên để giới thiệu sự tồn tại.

Dự luật đòi phải pháp lý hoá, quy chuẩn những cái tên phải thuần Việt của đại biểu Nguyễn Thị Nhung trước quốc hội, cuối tháng 10 mới đây, đã khiến nhiều người phải ngẫm nghĩ và mỉm cười. Chỉ mới là cái tên thôi, giờ đây đã là gánh nặng mỏi mệt và nhiêu khê thủ tục của một kiếp sống. Tên không còn là tên, mà tên đã trở thành một mã số chuẩn được chấp nhận. Rồi biết đâu, nay mai, thành công của dự luật này sẽ thúc đẩy sự việc phát sinh dự luật thuần Việt cho súc vật, không được đặt tên người cho chó mèo?

Cũng ở Gia Lai, câu chuyện về những đứa trẻ mồ côi may mắn có được tên trên giấy tờ có thể sẽ gợi mở được nhiều điều để suy ngẫm. Vài năm trước, một Dì phước (soeur) trẻ chăm sóc trẻ mồ côi ở Cô nhi viện trên thành phố Pleiku kể rằng mỗi năm, nơi này cứu không biết bao nhiêu trẻ bị bỏ rơi. Có những đứa trẻ người dân tộc thiểu số bị chôn sống theo mẹ, khi cứu được thì phải mất gần cả 2 tuần lễ những vết kiến lửa ăn quanh mắt mới gần lành.

Những đứa trẻ này khi 15 tuổi, được cô nhi viện dẫn đi làm giấy tờ cũng gặp không phải là dễ. Rất nhiều em bị từ chối không cấp chứng minh nhân dân với lý do không khai sinh, không rõ nhân thân. Các dì phước phải nhờ những người dân tộc đứng ra nhận chúng làm con, lấy họ người dân tộc để có mảnh giấy ra đời. Rất nhiều đứa trẻ người Kinh đã mang những cái họ không thuần Việt vì nhiều người dân tộc thiểu số của họ có họ theo tên thánh, hay những cái họ bằng tiếng Pháp, tiếng Anh... truyền đời từ những ngày đầu bước vào thế giới văn minh đến nay. Cũng may là chúng đã bước vào đời, dù cái tên không thuần Việt.

Tôi lại nhớ cuốn sách mình vừa đọc của tác giả Trà Vigar, nhớ những bức ảnh của Ina Jara, nhớ giọng ca Ksor Đức, Danh Nay, David Boo... Những người bạn dân tộc thiểu số trên đất nước này, với suy nghĩ rằng những cái tên của họ đa dạng và đẹp đẽ, chứ không phải là những cái tên để đón nhận sự phán xét.

Khi viết đến những dòng cuối của bài viết này, tôi nhìn thấy một người Mỹ già cầm tấm bảng xin tiền, ghi trên đó là một người không nhà cần giúp đỡ. Bỏ vào tay ông mấy đồng, hỏi thăm tên ông. Người ăn xin đó lịch sự hỏi lại tên, và tò mò "anh là Trung Quốc hay Nhật". Sau khi biết là người Việt, ông ta cẩn thận hỏi lại cái tên, vì khó đọc "Kane?". Tôi gật đầu cười và bước đi. Cái tên có quan trọng gì đâu, chỉ cần biết tôi là một người Việt, đã tốt rồi.


(Ảnh: Giang Đông Du)

Sunday, November 2, 2014

Tán gẫu đêm ma quỷ

Đêm Halloween, ngồi nói chuyện sư sãi đời nay, nghe mà phát khiếp không kém gì kể chuyện ma. Văn minh nhân loại dần tàn, không ít loại sư cũng như ma, cứ trộn lẫn trong đời thường chúng sinh.

Mới đây, một anh bạn hay vào internet, gửi cho xem câu chuyện đang xôn xao khắp nơi, về một vị sư kêu gọi xây dựng quân đội vững mạnh như Triều Tiên. Bài phát biểu được ghi lại ở Quốc Hội Việt Nam, tháng 10/2014. Phóng viên chụp hình ghi lại khoảnh khắc ông sư mở to miệng, mắt trừng lên quả quyết. Chiến tranh và kẻ thù chính trị có thể nhìn thấy rõ từ miệng và mũi của ông. Sư hừng hực sát tâm.

Mọi người trong cuộc trò chuyện, nhân đêm ma quỷ trên trần gian, nhắc nhau rằng trên thế gian này, chỉ có quân đội Triều Tiên là duy nhất điên cuồng với lý tưởng Cộng sản, sẳn sàng chết để bảo vệ chế độ chứ không phải là bảo vệ dân tộc hay tổ quốc. "Một bài phát biểu có tính toán với tư duy chính trị xuyên suốt. Ông sư này không hề điên khùng, chỉ có điên cuồng thôi", một người nói.

Khác với nhiều quốc gia khác, quân đội của Triều Tiên lừng danh với máu lạnh và sự hy sinh vô nghĩa cho một nhà nước độc tài nhất nguyên. Lịch sử của cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) để lại không biết bao nhiêu là đau thương, đặc biệt là sự tàn độc của những người lãnh đạo Cộng sản Bắc Triều. Kể cả khi rút đi vì thua trận, đạo quân này vẫn được lệnh phải cài lại các bẫy rập, để mong giết thêm được một ít người dân miền Nam.

Tạp chí Jane, năm 2013, các cuộc phối hợp sáng tạo vũ khí quân sự của Mỹ và Israel, các bộ óc siêu việt nhất của 2 quốc gia này đang đi dần đến kết quả của loại vũ khí hằng mơ ước là tấn công hiệu quả mà không cần phải sát hại bất cứ ai, thì trong khi đó, Bắc Triều lại tìm ra cách xử tử con người ghê rợn bằng đại bác hoặc cho chó đói xé thịt.

Chắc hẳn vị sư này đã nghiên cứu và hả hê về tính tàn bạo của Bắc Triều nên nêu đích danh quân đội này để yêu cầu Việt Nam noi theo. Không nghe ông sư này nói gì và băn khoăn gì trước thời mạt pháp đảo điên, chính nơi xứ Việt, sư thầy, sư cô quái gở lừng danh như những hot boy, hot girl.

Cuộc trò chuyện Halloween với những người bạn về Phật giáo Việt Nam chắc mấy chốc trở thành một cái nhìn bao quát. Những sự kiện náo loạn về sư, về chùa... hôm nay đọc mà đỏ mặt. Từng chuyện xâu lại như chuỗi tràng hạt nhưng không phải để niệm lên Phật tính, mà như cào cấu đến cõi tâm linh phải rướm máu. Đạo Phật buồn như chiều hiu hắt, mắt Phật buồn như ngày thấy cảnh lâm chung của nhân gian.

Nước Việt trong lịch sử, trãi qua những thời kỳ Phật giáo phát triển vĩ đại nhất như 200 năm thời Lý - Trần, khó mà tìm được các sư lạ kỳ như lúc này. Điện thoại Iphone 6 đắt như quan tài thượng hạng, vừa xách tay đến xứ Việt thì các sư đã có. Có sư còn đập hộp khoe hàng. Dân chúng cười khinh khi, các sư quan trên thì tím mặt, hô to "phải kỷ luật!".

Ai mà biết được những sư quan giận tím mặt đó, ai là đang lo lắng cho an nguy Phật đạo, ai là lo cho những sự xa xỉ không kém của mình bị trò lố của đồng đạo làm vỡ lỡ? Nói theo kiểu Kinh thánh, thì nếu như sư khoe của vỗ tay, hát rằng "ở đây ai không giấu của cải ăn xài, không hưởng thụ riêng thì hãy ném tôi viên đá đầu tiên". Chắc rằng sẽ không ai trong nhóm sư quan đòi kỷ luật ấy dám giơ tay động thủ.

Bởi vậy, chuyện từ bên trong lộ ra, mới nghe kể rằng ông sư xài điện thoại sang như bí thư, chủ tịch quận đến họp kiểm điểm cười hề hề, nhân tiện lại chụp hình post lên facebook làm vui và ra về. Chẳng ai làm được gì ông. Tín đồ buồn giận trách ông sao lố bịch, ông trợn mắt nói là người "thẳng thắn" mới vậy.

Những câu chuyện nước Việt đêm ma quỷ khiến tôi nhớ lại những tháng ngày lặn lội lên các chùa làm từ thiện, nhìn thấy mình, nhìn thấy người, tự cười rồi quay lưng ra về không bao giờ muốn quay lại.

Có chùa mở ra chuyện coi bói. Sư mập béo nghe cô gái đến đặt quẻ hỏi chuyện tình duyên chờ ngày kết hôn đi nước ngoài, sư gầm lên, vằn vện như cọp, nói như chính trị viên "tại sao mà cô cứ mơ màng đi mấy cái nước tư bản đó, đi đi, đi cho chết đi!".

Có chùa xin quỹ cho trẻ em hiếu học. Leo núi hồng hộc đến giao quà. Đến giờ phát, tự nhiên sư trẻ giật micro giữa chương trình, hớn hở hô to "các con phải biết ơn bác Hồ, phải thuộc 5 điều bác dạy nghe". Người cho quà phải giằng co, giật micro lại "Đây là quà của cá nhân chú, chú muốn tụi con thương cha mẹ, học giỏi để đỡ đần cho cha mẹ thôi nha". Chịu thôi, 5 điều bác dạy, đâu có thấy dạy thương cha mẹ bao giờ.

Có chùa bước vô, tượng Phật nhỏ đìu hiu đặt bên cạnh hình ông Hồ Chí Minh to vật vã. Người miền Nam ngưỡng Phật thiệt tình không quen mấy cảnh này. Một người bạn đi cạnh thì thầm "trời ơi, sao kỳ vậy", vậy mà một sư cũng nghe được, nhanh nhẹn như Hoả Hầu Vương, nhảy ra, hỏi bằng giọng Bắc cộc lốc "cần gì?". Thôi. Bái bai sư để đời còn vô sự.

Cũng đâu cần đến chùa. Có lần đi máy bay vô tình ngồi kế một Sư trẻ, tưởng được nghe Phật pháp, ai ngờ nói chuyện được một chút, nghe sư nói rắn như đang trong đồn thẩm vấn "Giáo hội Phật giáo VN Thống nhất là một tổ chức phản động, đã chết". Một anh bạn làm trong Liên hội Phật ở California kể chuyện phong trào các sư trẻ cầm sự vụ lệnh qua Mỹ mở chùa, kiếm tiền nhiều khôn xiết. Làm ăn có trưng hình Phật giờ khá lắm. Có sư làm lộ quá bị trục xuất đuổi về. Ô hô ai tai.

Ngàn năm trước, nghe rằng khi chuẩn bị nhập diệt, đức Phật để lại lời dặn "Thời mạt pháp, rồi chính đệ tử Như Lai sẽ bán Như Lai". Ở xứ Việt hôm nay, sư và chùa nhiều vô kể, nhưng kẻ bán Như Lai cũng nườm nượp không kém chợ đời. Lời dặn của Phật đáng lưu hơn ngàn bài giảng nơi cửa miệng của kẻ tu hành ám muội.

Khoác chiếc kasaya đâu có nghĩa là sư, miệng xưng Phật cũng đâu là Phật. Thời chính thể vô thần, khó biết được sư khoác chiếc áo hôm nay, là che chiếc áo gì hôm qua, hay để tiện giấu khẩu K.54. Đôi khi đi ngang chùa, nghe mõ chuông rầm rĩ, chỉ muốn chạy về ruộng đồng để nghe tiếng mô Phật không lời, giữa thinh không.