Saturday, December 28, 2019

10 nan đề của năm 2019




Năm 2019 đã qua, như thường lệ, những gì gây ấn tượng nhất cho người Việt sẽ được nhắc lại. Đặc biệt là nhắc lại khi đó là vấn đề không chỉ hôm nay mà của cả ngày mai. Dưới đây là 10 sự kiện hay vấn đề tạo nên dư luận, và cũng tạo nên một thái độ của người Việt về đất nước, con người và cả chế độ cầm quyền, được tạm liệt kê. Thứ tự các sự kiện không có tính bình chọn cao thấp, chỉ là tuần tự gợi nhớ.

1.       Vấn đề Trung Quốc
Trung Quốc vẫn là ý nghĩa then chốt trong nhiều sự tranh luận, phản ứng của người Việt với nhau, người Việt với nhà cầm quyền. Đầu tiên phải nói đến Bãi Tư Chính và cuộc xâm lấn của Bắc Kinh vào chủ quyền của Việt Nam, căng thẳng suốt trong nhiều tháng. Không chỉ vậy, dư âm của Luật Đặc Khu vẫn nhìn thấy thông qua các đạo luật riêng lẻ về sự ưu tiên của người Trung Quốc ở Vân Phong.
Hậu quả của Trung Quốc về các dự án dang dở và tốn kém, các nhà máy nhiệt điện và Formosa đang đầu độc người dân Việt Nam ngày đêm nhưng lại được sự yểm trợ của nhà cầm quyền là điều gây không ngớt sự chỉ trích.

2.       Luật An Minh Mạng
Được thực thi từ tháng 1/2019, Luật An Ninh Mạng trở thành cớ để ruồng bố, bắt giữ và kết án hàng chục người dân. Nhận định của nhiều báo chí quốc tế cũng như các nhà bình luận thời sự nói rằng Luật An Ninh Mạng đang hành động như một mạng lưới khủng bố nhân dân để bảo vệ chế độ, chứ không phải thuần túy phục vụ xã hội.  Cũng vì sự phát tác chống lại con người và phát triển xã hội mà vào 5/11, tổ chức Freedom House đã xếp hạng thấp Việt Nam về tự do internet với điểm 24/100, gần cuối bảng, chỉ trên Cuba, Syria, Iran và Trung Quốc.

3.       Công cuộc đốt lò
Công cuộc chống tham nhũng của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong năm 2019 đã hết sức gay cấn khi rất nhiều quan chức, đảng viên… bị kỷ luật, mất chức và vào tù. Sự kiện mới nhất trong tháng 12 là cựu bộ trưởng Nguyễn Bắc Son nhận án chung thân do nhận hối lộ 3 triệu USD.  Vào lúc khởi đầu cuộc “đốt lò”, nhiều người dân có phần tin rằng đây là một cuộc chống tham nhũng và làm trong sạch bộ máy cầm quyền, thế nhưng, đến lúc này thì câu chuyện được nhìn thấy mang nhiều hình ảnh hướng về một cuộc thanh trừng nội bộ, phe phái. Tuy nhiên, phải nói rằng công cuộc đốt lò này mở ra nhiều sự kiện để công chúng có thể suy gẫm sâu hơn về bộ máy cầm quyền.

4.       BOT và cuộc trấn áp nhân dân bởi các nhóm lợi ích
Vào thời điểm tranh tối tranh sáng trước đại hội đảng Cộng sản lần thứ 13, các cuộc đấu đá và giành quyền lợi từ các nhóm lợi ích bùng nổ với phần ăn có tên BOT. Từ các thông tin rò rỉ và và ngầm hậu thuẫn từ sau bức màn để lật đổ các nhóm lợi ích cũ, đã dẫn đến việc người dân bị hút theo và phản ứng liên tục với các trạm BOT từ Bắc chí Nam. Dĩ nhiên, trên bề mặt thông tin, những trạm BOT đó hoàn toàn sai phạm về lạm thu, lừa gạt, lạm quyền… và người dân có quyền để chất vấn và phẫn nộ, nhưng đồng thời dư luận cũng nói rằng các nhóm lợi ích mới đang muốn chiếm lĩnh các vị trí màu mỡ như vậy. Nhiều người tranh đấu vô tư để đòi quyền lợi chung đã bị đánh, bị mất tài sản thậm chí bị bỏ tù như Hà Văn Nam, Đặng Thị Huệ (Huệ Như)…

5.       39 người Việt trong Container
Sự kiện 39 thanh niên Việt Nam chết trên xe đông lạnh để nhập cảnh lậu vào Anh Quốc không chỉ là sự kiện của Việt Nam, mà còn là của thế giới. Dư luận trong Việt Nam cũng chia rẽ với những người theo quan điểm nhà nước thì chỉ trích người đã chết, phần còn lại thì cảm thương và đồng quan điểm với báo chí quốc tế rằng Việt Nam đang có tình trạng buôn người trầm trọng, cũng như ước muốn được thoát ly ra khỏi nước để kiếm sống là một vấn nạn có thật. Sự kiện này nhắc lại về hình ảnh boat people ở miền Nam Việt Nam sau 1975, với những người giàu có và đủ cơ hội, nhưng vẫn ra đi vì muốn tìm một tương lai khác.

6.       Ô nhiễm tràn ngập cả nước
Từ giữa năm 2019, tình trạng ô nhiễm nặng nề không khí và đời sống nói chung ở Việt Nam được bàn tán và trở thành đề tài chính của sự sống và phát triển của 94 triệu người Việt Nam. Đỉnh cao là tháng 10/2019, khi đưa các thông tin liên quan về ô nhiễm không khí tại Việt Nam, hãng Air Visual đã phải tạm đóng cửa trong một thời gian do bị tấn công dữ dội, thậm chí đe dọa từ giới dư luận viên và các thành phần cực đoan ủng hộ nhà cầm quyền. Tuy nhiên sau đó, thì Việt Nam vẫn phải công nhận các đo lường ô nhiễm từ công ty toàn cầu này. Các quan chức nhà nước thì nói rằng ô nhiễm đến do nướng than, đốt rác, bụi quét nhà, gàu tóc… nhưng không thấy nói gì đến nhiệt điện than hay Formosa.
Theo thống kê của báo chí nhà nước, mỗi năm Việt Nam có 50.000 người trong nguy cơ thiệt mạng vì ô nhiễm.

7.       EVFTA và xã hội Việt Nam
Hiệp định thương mại của Liên minh Châu Âu đối với Việt Nam dù được coi là ở những chặng sắp hoàn thành, tuy nhiên đang trục trặc ở vấn đề nhân quyền. Trong giai đoạn tìm hiểu và ký kết giữ hai bên, nhiều tổ chức và cá nhân trong Việt Nam đã gửi thư đến Nghị viện Châu Âu và đề nghị ngừng ký kết nếu Việt Nam không tôn trọng nhân quyền, bắt bớ người bất đồng chính kiến và ngược đãi tù nhân lương tâm. EVFTA là một vấn đề vô cùng quan trọng với nền kinh tế của chính quyền Hà Nội, nhưng nay có thể sẽ hoãn vô thời hạn. Việc bắt giữ tiến sĩ Phạm Chí Dũng, chủ tịch Hội nhà báo Độc Lập dường như là mồi lửa cho các ngôn luận chống EVFTA từ phía Châu Âu bùng nổ.

8.       Ngược đãi tù nhân
Tình trạng trừng phạt các tù nhân lương tâm vì ý chí của họ đã là chuyện làm xôn xao, khiến các tổ chức như Amnesty International, Human Rights Watch… phải lên tiếng. Rất nhiều tù nhân đã trãi qua sự đối xử bất công như Trần Hoàng Phúc, Nguyễn Văn Hóa, Trần Huỳnh Duy Thức… nhưng đến tháng 7/2019 thì bùng nổ sự kiện trại giam số 6, Nghệ An hành hạ tù nhân đang chịu thời tiết nắng khủng khiếp tại vùng này, bằng cách tháo quạt để tù nhân bị ngộp thở trong trại, khiến xảy ra tình trạng tuyệt thực tập thể phản đối. Khi người nhà của các tù nhân hay tin, đến thăm thì lại bị các cán bộ trại phối hợp với côn đồ tấn công, hành hung và cướp giật. Cũng ở trại này, tù nhân Đào Quang Thực (59 tuổi) qua đời, gia đình cũng không được mang xác về chôn.

9.       Án oan và chết trong trại tạm giam
Vấn đề án oan luôn được xã hội quan tâm. Cho đến nay, việc bồi thường và phải tuyên bố công khai xin lỗi những người tù oan nhiều năm, bị bức cung và tra tấn trong Việt Nam vẫn diễn ra như vụ ông Huỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn… nhưng gần đây nhất vụ án tù kêu oan lại làm dấy lên dư luận là Hồ Duy Hải. Bên cạnh đó còn có vụ án của Nguyễn Văn Chưởng, Lê Văn Mạnh… Chậm trễ và tắc trách cũng như bất minh là vấn nạn của người dân Việt Nam khi bị đưa vào tầm ngắm của các điều tra viên.
Riêng tình trạng người dân chết trong đồn công an khá phổ biến ở Việt Nam trong những năm gần đây. Năm 2018 có 11 vụ, năm 2019 có 3 vụ, phần lớn do phản ứng của gia đình mà xã hội mới biết. Nhiều trường hợp được gia đình nạn nhân xác định là do bị công an tra tấn. Nhiều trường hợp có người chết, công an ở nơi xảy ra án mạng thường đến nhà nạn nhân để điều đình việc im lặng. Nhưng phía công an thường cho biết những nạn nhân bị chết là do sức khỏe yếu hoặc tự tử. Theo Bộ Công an, từ năm 2011 đến 2014, có đến 226 người chết trong các trại tạm giữ, tạm giam, mà lời giải thích, phần lớn là ăn năn và tự tử.

10.   Trẻ em Việt Nam không còn an toàn
Năm 2019 là năm của trẻ em Việt Nam đứng trước cánh cửa vào đời đầy những vấn nạn. Các vụ xâm hại tình dục, tấn công trẻ em vị thành niên xuất hiện ở nhiều nơi, thậm chí ngay trong trường học, con số được báo cáo từ các tỉnh lên đến hàng ngàn. Nhiều vụ có liên quan đến các viên chức nhà nước nên đã bị bao che, làm nhẹ đi. Trường hợp ông Nguyễn Hữu Linh, cựu Viện phó VKSND Đà Nẳng bị 18 tháng tù là trường hợp đặc biệt do dư luận xã hội theo đuổi và tức giận đòi công lý.
Các vụ đánh đập và hành hạ trẻ em vẫn diễn ra và không được quan tâm cũng là một vấn nạn, mặc dù hiện có tổng đài 111 dành riêng cho việc bảo vệ trẻ em, nhưng hiệu quả rất kém.
Thậm chí việc trẻ đến trường cũng không an toàn. Trường hợp bé L. 6 tuổi, chết tại trường Gateway, Hà Nội vào tháng 8/2019 là sự kiện làm chấn động xã hội. Nhưng nhiều ý kiến cho rằng sự việc đã được ỉm đi, bởi trường này được sở hữu của giới con công cháu cha.

Dĩ nhiên, những lựa chọn trên đây chỉ là chủ quan. Vì bên cạnh đó vẫn còn những sự kiện như họp thượng đỉnh Mỹ-Triều, 9 người đi chuyên cơ của chủ tịch Quốc hội mất tích ở Hàn Quốc, Vườn rau Lộc Hưng bị cưỡng chiếm, Thủ Thiêm bị lừa gạt về chuyện giải quyết, Lư hương Trần Hưng Đạo bị cướp mang đi, giải tán và phục hoạt chương trình Tri ân Thương Phế Binh VNCH… Và dù là chuyện như thế nào, nếu đó là nỗi đau và nước mắt Việt Nam, thì sẽ mãi được ghi nhớ qua một năm đầy biến động 2019. Phần ghi nhớ nối tiếp, xin dành cho tất cả mọi người.

Thursday, December 26, 2019

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý (1925-2019), ra đi để lại một dư âm


Chiều ngày 26/12/2019, tin nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý qua đời đem lại không ít ngậm ngùi cho người hâm mộ. Ông mất ở tuổi 94, sắp tròn một thế kỷ đời, để là rất nhiều bài hát. Nhưng nổi tiếng nhất và được người yêu nhạc hát lại nhiều nhất, vẫn là bài hát Dư Âm, viết năm 1950.
Từ sau năm 2000, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã sống trong hiu quạnh giữa lòng xã hội âm nhạc thương mại. Những bạn bè, người hâm mộ khi gặp ông, đều nhìn thấy ông tiếc nhớ tháng ngày vàng son của mình, nhắc bài hát Dư Âm về số phận của nó sau khi ra đời, cũng mối tình chớm nở của tuổi thanh xuân.
Khi nhắc, mắt ông hấp háy nhìn người đối diện, rồi có lúc lặng người, như nhìn xuyên qua cả không gian để thấy lại những ngày tháng đẹp nhất của mình.
Tin nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý mất, khiến tôi nhớ nhiều đến ánh nhìn ấy. Có lẽ quá khứ đã từng đẹp đến mức khiến ông có thể đi qua ngày tháng hiện tại bớt nhọc nhằn hơn. Lúc tôi nghe ông mô tả về những ý nghĩa và giai điệu của Dư Âm, mắt ông bừng sáng như khui chiếc rương kỷ niệm bí mật nhất và đáng chia sẻ nhất.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý là một người tài hoa. Nhạc của ông viết xuống từng nốt nhạc đẹp như tranh thêu. Thậm chí không phải ca sĩ nào cũng có đủ khả năng để diễn đạt các tác phẩm của ông. Đặc biệt từ những năm 60, khi ông lánh về Hưng Yên để chạy trốn không khí thanh trừng nhân văn giai phẩm, mà bất kỳ văn nghệ sĩ nào lúc đó, cũng nơm nớp phần mình bởi những lời kết tội vô chừng - ngủ chưa hết đêm phập phồng đã thấy lao xao trước cửa ai đó gọi tên mình.
Ở mỗi giai đoạn xã hội, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đều có những tác phẩm công phu và danh tiếng cho mình và cho cả chế độ mà ông phục vụ. Năm 1945, khi tham gia Việt Minh và giai đoạn kháng Pháp, Nguyễn Văn Tý đã cống hiến rất nhiều những bài hát cho cách mạng như Ai xây chiến lũy, Tiếng hát Dôi-a, Vượt trùng dương… Thời Bắc Nam nội chiến, ông cũng viết rất nhiều bài cho việc phục vụ tuyên truyền như Dòng nước quê hương, Màu áo chú bộ đội, Hát mừng chiến công, Thành phố Hồ Chí Minh… Rồi sau năm 1975, ông lại tiếp tục là một trong những cây viết hàng đầu của nhà nước với việc đóng góp những bài hát nổi tiếng trên truyền hình, báo chí như Em đi làm tín dụng, Mùa xuân cô đi nuôi dạy trẻ, Dáng đứng Bến Tre… Nhưng dù cống hiến miệt mài và nhiệt tình như vậy, lịch sử của nhạc sĩ vẫn có những vết gợn trong giới lãnh đạo đến năm 2000, ông mới được giới lãnh đạo xét duyệt cho giải thưởng Hồ Chí Minh.
Vết gợn thứ nhất đó là việc cho ra đời bản Dư Âm. Và vết gợn thứ hai là việc ông có tên trong những người thực hiện ấn bản Nhân văn Giai Phẩm, khiến phải làm việc ngày đêm với công an thời đó.
Dư Âm chỉ là một ca khúc tình yêu, thậm chí là ca khúc xuất sắc về tình yêu đôi lứa. Nhưng tiếc là trong không khí hừng hực chiến tranh được chỉ đạo từ Trung ương, Dư Âm bị coi là một ca khúc phá bĩnh, khiến trai gái có thể mềm lòng, không đủ sức chiến đấu.
Lúc đó, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý 26 tuổi. Ông được mai mối đến làm quen với hai chị em ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Và trong tích tắc nhìn thấy cô em tên Hằng 16 tuổi, ông đã yêu nhưng duyên không thành. Tám năm sau khi gặp lại, thì nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý chỉ còn kịp thấy cô đang đi bộ đội ở Vĩnh Yên, và có lẽ đã có người yêu.
Bài hát Dư Âm là tâm sự của chàng thanh niên ấy, và chỉ đàn hát loanh quanh nhưng cũng đủ trở thành cơn sốt trong thanh niên thời ấy. Ai cũng ngâm nga Dư Âm, ai cũng chép lời để dành làm kỷ niệm. Và Nguyễn Văn Tý trở thành cái tên gây tò mò dữ dội ở Hà Nội.
Nhưng rồi thời kỳ chỉnh huấn 1953 đã thay đổi tất cả. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý bị họp đấu tố, bị buộc viết kiểm điểm để xác nhận là đã sai lầm khi sáng tác Dư Âm. Quyết liệt hơn, các cán bộ văn hóa và tuyên giáo còn tổ chức các buổi nói chuyện ở nhiều nơi trước quần chúng đông đảo, mà nơi đó, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý phải tự sỉ vả mình, phải chối bỏ đứa con tinh thần và đề nghị quần chúng nhân dân… đừng nghe nữa.
Cái khó nhất, là ở miền Bắc thì đạp lên Dư Âm, nhưng ở miền Nam, khán giả ngày càng hâm mộ. Hàng ngày, đài phát thanh Sài Gòn vẫn nhận được thư yêu cầu phát lại bài hát này. Do đó, “tội” của ông lại càng nặng.
1957, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý được lệnh chuẩn bị thành lập Hội nhạc sĩ Việt Nam, cùng với những văn nghệ sĩ hàng đầu của miền Bắc như Văn Cao, Lưu Hữu Phước… thế nhưng một lần nữa ông lại lao đao vì tên của ông xuất hiện trên tạp chí Nhân văn Giai Phẩm – một diễn đàn nói thẳng, nói thật và đòi dân chủ xã hội ngay trong thời điểm đó, hoạt động trong thời gian 1955-1958. Theo thanh minh của ông, là do tình thân với Đặng Đình Hưng (thân phụ của nghệ sĩ piano Đặng Thái Sơn) nên chỉ đứng cùng trên danh sách ban biên tập. Nhưng vào thời buổi ấy, đó cũng chỉ là một lời khai, nhất là khi mỗi người khai, chỉ vì nhìn thấy duy nhất một con đường sống của mình.
VÌ lẽ đó, ngoài việc không thể còn tham gia việc dựng Hội nhạc sĩ Việt Nam, ông phải tìm cách xin đi Hưng Yên để nghiên cứu dân ca (1961), mục đích là ở ẩn, thoát khỏi không khí thanh trừng kinh hoàng ở Hà Nội về Nhân văn Giai phẩm. Tận dụng chuyến đi, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý cắm cúi sáng tác liên tục, không dám màng đến thế sự. Đến năm 1967 ông mới quay về Hà Nội. Ông kể lại chuyện này với ánh mắt đầy vẻ sợ hãi, nói ông là người may mắn thoát được, còn tất cả bạn bè ông đều phải chịu những số phận khốn khổ vô cùng. “Ác lắm”, ông chỉ lắc đầu, kết luận nhanh như vậy.
Cuộc đời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý là một ví dụ rõ về thân phận của một nghệ sĩ tài hoa, phải chấp nhận nhiều bi kich âm thầm để tồn tại trong một cuộc sống không có ngã rẽ chọn lựa nào. Sau năm 2006, nhiều lần ông đã phản ứng mạnh mẽ về đời sống, về chính trị khi được các đài nước ngoài phỏng vấn, nhưng mọi thứ lọt thỏm trong thời đại mới nhộn nhịp thương mại. Bi kịch là khi ông muốn nói, và nói thẳng thì lại không còn ai quan tâm.
“Tôi chỉ tự hào nhất là bài Dư Âm của mình”, ông nói dứt khoát khi được hỏi về các tác phẩm của mình. Thật trớ trêu. Khi khán giả nhìn thấy cái tên Nguyễn Văn Tý bên cạnh bài hát Dư Âm, ít ai biết rằng ông luôn mang theo mình dư âm của thời son trẻ. Một dư âm đẹp đẽ vang lên nhưng phía sau nó, thật buồn.


Thursday, December 19, 2019

Cho một người vừa chết, cho một người mỏi mòn



Cho một người vừa chết, cho một người mỏi mòn

Đám tang của thầy Đào Quang Thực tại quê nhà của ông, tỉnh Hòa Bình, giống như một lễ dựng mộ gió của người chết mất xác trên biển miền Trung. Gia đình và bạn bè của ông đứng quanh một bàn hương án, có tấm băng-rôn ghi tên và ngày chết của ông, chứ không có thi thể. Ở đâu đó, heo hút và khắc nghiệt của thời tiết và của cả trại giam số 6 Nghệ An, thầy Đào Quang Thực bị vùi ở đó theo luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với lý do đơn giản là việc giao thi thể về nhà sẽ gây mất an ninh.

Theo thông báo, 3 năm sau khi thầy Thực qua đời (tuổi 59), gia đình mới có thể lên trại giam số 6, Nghệ An để làm đơn xin cải táng.

Thầy Đào Quang Thực bị kết án 13 năm tù, một mức án nặng đến ngạc nhiên dành cho một thầy giáo đau yếu và hay cười nói. Công an tỉnh Hoà Bình đặt tên cho thầy Thực là “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, một tên gọi tự nhiên và đầy tính viễn tượng, như kiểu cha mẹ chọn cho con mình một cái tên thằng tèo, con tí, ngẫu hứng và may rủi.

Nhưng thầy Thực là một đứa con không may mắn trên đất Việt. Từ khi tạm giam, ông đã bị đánh, bị bỏ đói và khi đưa đi cấp cứu, ông cũng bị ngăn không được gặp gia đình. Và rồi, cuối cùng thì 3 năm sau, người hoạt động lật đổ chính quyền bằng nụ cười ấy, qua đời trong một trại giam nổi tiếng tàn ác từ trong đến ngoài trại. Tưởng chừng như ông được giải thoát trước 10 năm giam cầm của mình, nhưng không, thầy Thực vẫn phải chịu biệt giam cùng bùn đất nơi bãi chôn của trại giam số 6 Nghệ An thêm 3 năm nữa: Điều nhân đạo nhất mà một chế độ có thể làm được.

Đã đến lúc chúng ta cần nhớ đến những người đã đi qua giam cầm, đi qua những án tù quái lạ và chết nối, linh thiêng vào đời tự do mà họ mơ ước. Tôi nhớ những người như anh Huỳnh Anh Trí, thầy Đinh Đăng Định, ông Trương Văn Sương, tu sĩ Cao Đài Trần Hữu Cảnh, tu sĩ Đoàn Đình Nam, những thầy tu Phật Giáo, những linh mục Công giáo… danh sách thật dài, không kể xiết kể từ 1975 đến nay. Tôi không nghe thấy sự thù hận, chỉ có nỗi buồn và sự cao thượng tỏa lan. Tôi nhớ những giờ phút thầy Đinh Đăng Định yếu lã, lời dặn của ông với những người chung quanh là đừng để hận thù chiếm lấy trái tim, mà hãy tha thứ. Họ nối nhau ra đi, và trở thành những bằng chứng sáng lòa về một đất nước còn đầy những oan nghiệt.

Còn nữa hay không, những người con của nước Việt như vậy sẽ ra đi, chỉ vì ước mơ nhìn thấy một quê hương đổi thay tốt đẹp hơn, ước mơ nhìn thấy một chính quyền thật sự vì tổ quốc và dân tộc? Danh sách đã dài lắm chưa trong tim bạn?

Tháng 12 này, gia đình của anh Hồ Đức Hòa đi thăm nuôi về, và lặng đi khi thấy anh Hòa đã mang thêm chứng tê bại, có thể dẫn đến liệt người. Đây là điều dễ thấy nhất, trong số những chứng bệnh về đại tràng, trĩ, huyết áp cao, gan chai… mà anh đã chịu đựng suốt 8 năm qua.

Hồ Đức Hòa là người chịu án nặng nhất trong số những người bị kết án trong vụ 14 thanh niên Công giáo và Tin Lành vào năm 2013. Trong số đó, có 6 người tuyên bố không nhận tội do tòa án phán quyết, bao gồm Hồ Đức Hòa, Lê Văn Sơn, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Hồ Văn Oanh, Trần Minh Nhật. Riêng Hồ Đức Hòa bị án nặng nhất là 13 năm tù và 5 năm quản chế, bị coi là người đứng đầu trong nhóm. Con số 13, như định mệnh chung cho cả thầy Thực và anh Hòa.

Sức khỏe của tù nhân Hồ Đức Hòa ngày càng suy sụp. Và lúc này thì càng ngày càng thấy rõ hơn, khi có nghi vấn là anh mắc bệnh ung thư gan thời kỳ đầu. Gia đình của anh Hồ Đức Hòa cho biết, vốn là một người can trường và thường giấu nhẹm tình cảnh khó khăn của mình để mẹ già không lo lắng, nhưng đến nay, anh bật nói ra với người nhà trong lần thăm nuôi mới vừa rồi, cho thấy anh không còn đủ sức chịu đựng như trước.

Từ năm 2016, anh Hồ Đức Hòa không còn được nhận đồ thăm nuôi của gia đình, kể cả những loại thực phẩm trợ giúp cho các chứng bệnh của anh, thậm chí cả thuốc men. Trại giam Ba Sao, lừng danh với sự khắc nghiệt không kém trại 6 Nghệ An, chỉ cho gia đình gửi tiền vào lưu ký trong trại giam, để mua thức ăn hay nhu yếu phẩm của trại bằng giá đắt đỏ nhưng không kiểm soát được phẩm chất. Lý do trừng phạt là anh Hồ Đức Hòa có tư tưởng cải tạo không tốt. Gia đình cũng nhận được thư của trại giam, yêu cầu phải thúc đẩy anh Hòa nhận sự giáo dục tư tưởng của trại.

Tù nhân ở Việt Nam trải qua 2 lần tù như vậy. Sau khi bị kết án và bị giam giữ, họ còn phải bị tra tấn tinh thần suốt thời gian thụ án, bằng cách phải xác nhận ăn năn và ra mặt cầu xin sự khoan hồng của đảng và nhà nước. Tù nhân Hồ Đức Hòa đã đi qua 8 năm với 2 lần tù tinh thần và thể xác như vậy.
Không như thầy Đào Quang Thực phải qua đời trong im lặng. Hay như thầy Đinh Đăng Định, ra đi trong sự chứng kiến đầy bất lực của mọi người chung quanh, anh Hồ Đức Hòa là một thực thể sống và đang mỏi mòn. Vì Hồ Đức Hòa là một hình ảnh rõ nét của ý chí tự do, đầy nhân cách của một người tự do. Anh cần hơn hết sự quan tâm của mọi người, của công luận vào lúc này. Những người tù đã ra đi và được nhớ đến, là lý do để anh Hồ Đức Hòa cần được nhớ nhiều hơn hôm nay.

Đừng để những danh sách đau thương ấy dài hơn, đáng nhớ hơn. Sự sống của mỗi con người bất cứ nơi nào đó trên đất Việt, không phải chỉ để nhớ đến, mà để hành động.


Friday, November 29, 2019

Nhà báo Phạm Đoan Trang:"Chúng tôi muốn khẳng định viết và đọc sách là quyền không thể bị cưỡng đoạt"

Câu chuyện một nhà xuất bản (NXB) ở Việt Nam tự in và phát hành nhiều tác phẩm không qua kiểm duyệt, đã trở thành một sự kiện quốc tế. Bởi lẽ, gần 100 người mua sách từ Nam chí Bắc đã bị phía an ninh Việt Nam đặt vào tình trạng như tội phạm. Phạm Đoan Trang, tác giả nhiều cuốn sách cùng NXB Tự Do - nơi in và phát hành - bị săn đuổi ráo riết. Hai tổ chức Theo Dõi Nhân quyền (HRW) và Ân Xá Quốc Tế (AI) cũng đồng loạt ra thông cáo trong tháng 11/2019, trong đó phản đối công an Việt Nam về các vụ vây bắt, dẫn đến cả việc hành hung cả độc giả và người giao sách.
Thật ngạc nhiên, nếu so với những ấn phẩm khác như Đèn Cù (Trần Đĩnh), Bên Thắng Cuộc (Huy Đức) hay mới nhất là cuốn Thế thiên hành đạo hay Đại nghịch bất đạo (Phạm Thành)… thì những cuốn sách của NXB Tự Do và nhà báo Phạm Đoan Trang hoàn toàn vô hại, chỉ là sách kiến thức thuần túy.
Cuộc trò chuyện với nhà báo Phạm Đoan Trang từ một nơi nào đó, lưu lạc vô định cho công việc của cô, đã mở ra nhiều góc nhìn thú vị về sự kiện này.
Đoan Trang có thể tóm tắt cho biết tình hình của của mình ở giai đoạn gần đây, và nếu được thì cho thêm những thông tin về NXB Tự Do.
Tôi may mắn được trao giải tự do báo chí của tổ chức RSF vào tháng 9/2019, nhưng cũng vào giờ phút nhận giải ấy, tôi tin rằng sự căm ghét của công an đối với tôi cũng tăng lên rất nhiều. Và từ đó, họ ghép tôi là có dính líu sâu xa với nhà xuất bản (NXB) Tự Do, mặc dù NXB này là một tổ chức độc lập, không làm việc riêng cho cá nhân nào, đảng phái hay tổ chức chính trị nào. Công an ghép tôi và NXB Tự Do vào một suy nghĩ chung là “phản động”. Thật ra, NXB Tự Do ngay từ ngày đầu thanh lập (14-2-2019) đã bị đàn áp rất nhiều. Facebook của họ bị đánh sập, các hoạt động thường ngày như mua bán, phát hành đã bị ngăn cản, rượt đuổi. Đến tháng 7, thì tất cả các tài khoản ngân hàng của họ đều bị khóa một cách vô lý. Phía ngân hàng chỉ thông báo đơn giản là tài khoản này đã bị vô hiệu, không thể hoạt động. Những người đi giao sách bị săn đuổi, gài bẫy rất nhiều. Đến tháng 10, nhiều người giao sách ở Sài gòn và miền Trung bị bắt. Từ đó họ tìm ra một số người đặt mua sách. Ngay sau đó, họ mở cuộc tổng đàn áp trên diện rộng, ở toàn quốc.
Nhiều người mua sách bị công an sách nhiễu. Có người mua sách đã lâu rồi, nhưng công an lần biết đã đến tận nhà, lục soát, bắt về đồn thẩm tra… Không có ngày nào mà tôi không nhận được thư của độc giả. Có người kể chuyện của họ, có người hỏi cách đối phó, có người kêu cứu vì bị công an áp bức quá đáng. Rất nhiều người sợ hãi.
Thật ra, không có ai mà không sợ hãi cả. Thâm tâm mọi người vẫn tin rằng đọc sách không thể là tội. Thế giới văn minh không coi việc đọc sách là tội cả. Nhưng công an thì bất chấp, khi đối diện với người có sách của NXB Tự Do, thông điệp của họ là “đồ này phản động, chúng mày đọc chỉ có chết” (Đoan Trang cười). Và khi hỏi về luật hay lý lẽ, thì họ gạt phăng và nói đây là Việt Nam, và Việt Nam có luật riêng về chuyện này.
Cho đến lúc này, tôi biết số độc giả bị hăm dọa, bị đến nhà lục soát, bị bắt cóc… lên đến cũng khoảng 100 người, trên toàn quốc. Nhiều độc giả giờ bị cắt liên lạc, không biết họ thế nào. Nhiều người đi giao sách cũng mất tích, không biết họ ở đâu.
Nhưng với việc hành động táo tợn và sách nhiễu diện rộng như vậy từ mấy tháng nay, Đoan Trang nghĩ rằng họ chỉ muốn tấn công cá nhân Trang hay muốn dẹp bỏ NXB Tự Do, một hình thái của một tổ chức XHDS mới phát sinh?
Tôi nghĩ rằng họ muốn cả hai. Họ ghét cay ghét đắng sách tự do, và họ ghét luôn người xuất bản tự do. Qua cái cách mà họ thẩm vấn những người đi giao sách và người mua sách, công an luôn dùng những lời lẽ miệt thị nặng nề với tôi và cả NXB. Họ thường gọi bằng “con phản động ấy” (Đoan Trang lại cười).
Thêm một điểm nữa là thường vào cuối năm, căn bệnh háo thành tích cũng thúc đẩy họ làm mạnh hơn để nhận khen thưởng, chiến tích… Nên mọi cuộc đàn áp thường tăng vọt bắt đầu vào quý 4 hàng năm.
Đã có người đặt câu hỏi rằng, việc bắt giữ Đoan Trang hết sức dễ dàng, thậm chí còn dễ hơn là bắt giữ nhà báo Phạm Chí Dũng. Nhưng vì sao họ lại không chủ trương bắt?
Bắt giữ hay hành hạ lâu dài bên ngoài đều thuộc về chủ trương. Và mọi hình thức, họ đều có cách tính toán cẩn thận. Thời điểm này không bắt, không có nghĩa là sau này không bắt, và không bắt không có nghĩa là được yên thân.
Với tôi, có lẽ họ đang dùng một phương thức là cô lập, chặt hết chân tay để vô hiệu hóa ở môi trường được coi là tự do. Nhưng họ sẽ khủng bố tinh thần bằng cách săn đuổi – một kiểu khủng bố tinh thần – và bắt được ở đâu thì đánh cho dở sống sở chết.
Họ cô lập mình bằng cách ruồng bố những người thân, bạn bè của mình, làm cho những người chung quanh sợ hãi và thấy phiền vì mình. Từ đầu năm đến nay, các nhóm như Green Trees hay Luật Khoa Tạp Chí… đều bị đàn áp dữ dội. Thường thì công an thẩm vấn những người quen biết, luôn có ý muốn giấu mục đích này bằng cách tra vấn đủ mọi chuyện không liên quan, nhưng họ cũng không quên nói xấu hay nặng lời về tôi.
Từ sự kiện rất nhiều người bị bắt, bị sách nhiễu, đàn áp… ở khắp cả nước vì đọc sách của Đoan Trang, nhận sách của NXB Tự Do, đã xuất hiện nhiều lời đồn đãi – thậm chí là cả phía người Việt ở hải ngoại – về chuyện Đoan Trang là “nằm vùng” hay “cộng sản cài” để âm mưu phát hiện và bắt giữ những người bất đồng chính kiến?
Tôi tin rằng là có. Tôi tin là công an CS đang dùng biện pháp kép. Một mặt chặt hết chân tay – theo nghĩa đen – là bắt được là đánh, thậm chí đánh cho thương tật nhưng không bắt. Mặt khác họ săn đuổi khiến những ai quen biết đều sợ hãi và mệt mỏi khi muốn đồng hành hay giúp mình. Riêng về độc giả của các sách tôi viết, NXB Tự Do phát hành thì bị đàn áp liên tục và dai dẳng với cái kiểu “ai dây vào con phản động này sẽ đi tù hết” (lại cười). Nhưng công an cố tạo tình huống thắc mắc “người đọc sách bị bắt, người viết sách vẫn bình an”. Họ cũng cho tung ra dư luận là Phạm Đoan Trang và NXB Tự Do là do bọn công an gài bẫy, một loại chim mồi để phát hiện và bắt giữ những ai có lòng yêu tri thức, yêu sách xuất bản tự do. Dĩ nhiên, có không ít người do sợ hãi và yếu lòng, cũng bị thao túng.
Chỉ là viết sách, nhưng lại trở thành kẻ bị săn đuổi và hành hạ. Mọi thứ đang ngày càng trở nên nguy hiểm bằng suy nghĩ của mình nhưng Đoan Trang vẫn tiếp tục như một thách thức với nhà cầm quyền. Qua công việc này, Đoan Trang (hay cả NXB Tự Do) muốn chuyển thông điệp gì đến với giới trẻ, với đám đông?
Thông điệp của tôi – và có lẽ của cả NXB Tự Do – hướng về người đọc là chúng ta không sợ hãi, không cần phải sợ hãi. Với công an, không có chuyện sợ thì sẽ được nương tay. Hãy nhìn Hồng Kông để thấy đó là một bài học. Sự đàn áp là có mục đích nên khi con người lùi lại hay sợ hãi, sự đàn áp sẽ còn mạnh hơn để phục vụ cho mục đích của kẻ đắc thắng về bạo lực.
Tôi hay NXB Tự Do muốn giới thiệu việc hành động bằng quyền của mình, tự do chính đáng của mình mà không cần phải lo sợ. Nếu sợ hãi, thì đã không có sách in từng cuốn, giao tận tay để chia sẻ sự không sợ hãi với quyền của mình. Nếu ngán ngại, thì chọn ebook phát hành trên mạng là xong và không cần nghĩ ngợi, lo lắng gì cả. Nếu đã chọn sợ hãi làm lẽ sống, và không dám thể hiện quyền của mình thì chúng ta cũng chẳng nên làm gì cả, cứ thủ phận và chấp nhận mọi thứ, và chúng ta cũng chẳng có gì cả. Thậm chí tự mình phủ nhận việc đọc sách hay viết sách là quyền tối thiểu của con người.
Việc xuất hiện sách với suy nghĩ tự do, còn có giá trị lưu trữ cho đời sau. Để mọi thứ là chứng cứ và tính kết nối kế thừa. Đó là dấu hiệu của một cuộc đòi dân chủ ôn hòa, để người sau nhìn thấy những bài học của người đi trước và tiếp tục. Các bạn trẻ ở Hồng Kông không thể tự mình phát sinh ra các phương thức đấu tranh dân chủ từ cách mạng dù vàng 2014 cho đến cuộc đòi dân chủ 2019. Họ đã được học, được đọc, được trao đổi và kế thừa từ rất nhiều thứ. Và những thứ đó, từ những người hành động tưởng chừng như vô ích như NXB Tự Do.
Tôi hay NXB Tự Do đối diện với nguy hiểm, nhưng điều đó không còn quan trọng nữa. Vì giả sử ngày mai, tôi hay NXB Tự Do bị bắt hết, tôi tin là sẽ có những người khác hành động, vì đó là trách nhiệm và sứ mạng của những ai biết nghĩ cho tương lai, dân tộc mình.
(ghi)

Thursday, November 14, 2019

Luật sư Lê Công Định “Vụ án Ls Hải ‘trốn thuế’ chỉ là đòn triệt hạ”




Vụ án xử luật sư Trần Vũ Hải với tội danh trốn thuế, ở mức 280 triệu đồng, được mở ra từ ngày 13-11 ở Nha Trang, Việt Nam, dự kiến ban đầu sẽ kéo dài đến 5 ngày. So với những vụ án xử đại tham nhũng ở mức sai phạm hàng ngàn tỷ đồng đã diễn ra trong năm 2018-2019, sự căng thẳng và phức tạp ở sân tòa Nha Trang, có những chi tiết nhìn thấy, còn nghiêm trọng hơn.
Điều gì đem lại sự bất thường này, mà với hơn 60 luật sư tha thiết đòi hỏi quyền được tham gia bào chữa? Từ Sài Gòn, luật sư Lê Công Định đã có những lý giải thú vị, và cũng rất thẳng thắn, về vụ kết tội “trốn thuế” đối với vợ chồng luật sư Trần Vũ Hải.

Phiên tòa xử ông Trần Vũ Hải với tội danh trốn thuế - nhưng đã xảy ra nhiều hình ảnh kỳ lạ như luật sư phải qua kiểm tra 3 vòng an ninh, bị tịch thu dụng cụ hành nghề, phá sóng điện thoại… và công an đủ loại ngăn chận khắp nơi. Hành động này diễn ra với một phiên tòa rất bình thường, với ông, là mang ý nghĩa như thế nào?
Những điều diễn ra như vậy, hoàn toàn không nằm trong một quy định pháp lý nào cả. Máy tính, điện thoại… của các luật sư là công cụ hành nghề, nhưng phía tòa án lại ra lệnh thu giữ, nhằm gây khó cho việc bào chữa một cách hợp pháp và đầy đủ. Ngược lại, phía công tố và hội đồng xét xử (HDXX) thì lại được cung cấp đầy đủ các phương tiện đó. Rõ ràng, đó là một sự bất bình đẳng kỳ lạ trong các phiên tòa chính trị hoặc có tính cách chính trị ở Việt Nam. Luật sư muốn tham dự tòa thì phải qua ba vòng kiểm tra an ninh. Phóng viên nhà nước cũng không được quyền vào tường trình. Ai cũng thấy đây không phải là một vụ án xử trốn thuế bình thường, mà hoàn toàn là một cách tạo dựng để nhằm triệt hạ một luật sư có uy tín. Chính những hành động ngăn cản quái lạ này đã chứng minh đây không phải là một phiên tòa bình thường.
Mục tiêu của việc triệt hạ này, suy ra là chính quyền muốn ngăn không cho luật sư Trần Vũ Hải tiếp tục hành nghề để bảo vệ công lý, hay tiếp tục tham gia những vụ án gọi là “nhạy cảm” về chính trị.

Lâu nay, tòa án ở Việt Nam vẫn có một chiêu trò là luật sư bào chữa cứ đặt vấn đề và yêu cầu tranh tụng, nhưng HDXX thì cứ lờ đi và từ chối tranh tụng. Nay với đòi hỏi của hàng chục luật sư tham gia bào chữa cho ông Trần Vũ Hải tuyên bố là tòa phải ra tòa, phải tranh tụng cho tới nơi tới chốn, liệu vụ án này có mở ra được một tiền lệ nào tiến bộ hơn không?
Viện kiểm sát (VKS) lâu nay, trước các phiên tòa như vậy, vẫn luôn đuối lý trước các luật sư, nên họ chọn giải pháp là im lặng hoặc từ chối trả lời. Ngay điều này, cũng đã vi phạm nghị quyết của Bộ chính trị Đảng cầm quyền từ nhiều năm trước, là đòi hỏi các phiên tòa phải mang tính tranh tụng nhiều hơn. Nguyên tắc của một tòa án văn minh là đại diện VKS không thể từ chối các câu hỏi của luật sư. Tranh tụng là một phương tiện pháp lý để làm sáng tỏ tình tiết của những vụ án. Từ chối tranh luận tại tòa, không chỉ là chuyện đuối lý mà còn là vi phạm luật tố tụng. Trong những phiên tòa chính trị hay có ý nghĩa chính trị gần đây, đại diện VKS thường im lặng hoặc từ chối tranh luận, thì chính họ và cả phiên tòa đã vi phạm pháp luật, vi phạm tố tụng.

Vụ khởi tố của ông Trần Vũ Hải với nhiều chi tiết khác thường, có những nhận định nói rằng đây không phải là chuyện công lý nhà nước, mà là một sự thao túng có tính cách “lợi ích nhóm” với đối với luật pháp quốc gia?
Thật sự là vậy. Chúng ta thấy không chỉ từ chuyện liên quan vụ án của ông Trương Duy Nhất, mà còn nhiều vụ án khác mà luật sư Trần Vũ Hải đã và đang tham gia. Khi khám xét văn phòng làm việc của ông Hải, cơn quan an ninh đã cướp đi rất nhiều hồ sơ, lên đến 20 thùng, mà hầu hết là những hồ sơ liên quan đến các vụ án ông Trần Vũ Hải đảm nhận – không liên quan gì đến vụ “trốn thuế” cả. Chúng ta có thể nhận thấy ngay là một thế lực nào đó, đang muốn gạt ông Trần Vũ Hải ra khỏi các vụ án “nhạy cảm”, thậm chí có thể liên quan đến phe phái đánh nhau, nạn nhân đấu đá nội bộ… Việc luật sư Hải tham gia bị coi là có thể tạo ra những hệ quả bất thường mà họ không kiểm soát được, nên suy ra, triệt hạ có thể là giải pháp tốt nhất.

Trong video ghi lại hình ảnh các luật sư bị chặn trước sân tòa, người ta nhìn thấy sự bất mãn lan rộng trong từng người, và cũng cho thấy sự bất cập của một nhà nước chỉ muốn dùng luật pháp và luật sư như một công cụ cai trị. Trước đây, trong một status của mình, ông có nói với luật sư Võ An Đôn (cũng là một nạn nhân của một nền tư pháp giả hiệu) rằng sẽ có lúc một Hội luật sư độc lập ra đời. Liệu điều đó có đang diễn ra từ con số 60 luật sư muốn bào chữa cho đồng nghiệp và đòi ý nghĩa thật sự của công lý hay không?
Điều đó hoàn toàn khả thi. Vì các luật sư là những người làm việc tự do, dù họ là thành viên của các đoàn luật sư. Việc gắn với luật sư đoàn vì đó là một tổ chức nghề nghiệp, họ cần trao đổi, quan hệ… nhưng thực tế thì luật sư là những người làm việc hoàn toàn độc lập và tự do. Đó là tiêu chí hàng đầu của các luật sư. Nhưng trong một xã hội toàn trị như Việt Nam hiện nay, tổ chức nào thì cũng là cánh tay nối dài của Đảng cộng sản. Các đoàn luật sư hay liên đoàn luật sư đều bị đặt trong vị trí là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, nên công việc của các luật sư bị hạn chế rất nhiều.
Vì tinh thần nghề nghiệp cao quý đã có từ hàng trăm năm nay trên thế giới, và cũng của Việt Nam, các luật sư luôn luôn hướng về sự độc lập. Đó là lý do vì sao nhiều năm nay, giới luật sư đã dấn thân nhiều hơn trong việc bảo vệ dân oan, bảo vệ những tù nhân chính trị, cùng tìm kiếm công lý vốn đang ngày càng hiếm hoi trên đất nước này… thì khả năng họ đoàn kết lại và lập thành Hội để bảo vệ nhau, đại diện… là hoàn toàn có thể.
Con số 60 luật sư ghi danh tham gia bào chữa cho luật sư Trần Vũ Hải cho thấy giới luật sư ý thức rõ, hôm nay là luật sư Trần Vũ Hải, ngày mai có thể chính là họ. Sự tham gia này cũng có một ý nghĩa phản kháng và đòi giá trị công lý đích thực, cũng như phản đối cách hình sự hóa của cơ quan chính quyền đối với hoạt động nhận lời bào chữa hay tranh đấu bằng pháp lý cho thân chủ. Giới luật sư đang muốn chứng minh rằng bằng luật pháp, họ có thể dành lại sự công bằng và thay đổi xã hội một cách hợp pháp.

Trở lại giả thuyết cho rằng, thế lực nào đó muốn triệt hạ ông Trần Vũ Hải, không muốn ông nhận bào chữa cho cựu tù nhân lương tâm Trương Duy Nhất. Nhưng thực tế, nếu không phải là ông Hải, vẫn có 5 hay 3 luật sư khác nhận bào chữa. Tại sao việc khởi tố rất rùm beng và gây tổn thương cho chính bộ mặt nhà nước về vụ “trốn thuế” này phải nhằm cho được vào ông Hải mới được?
Luật sư Trần Vũ Hải có quá trình làm việc rất lâu với ông Trương Duy Nhất. 4 năm trước, ông Hải đã làm luật sư bào chữa cho ông Nhất. Do đó, luật sư Trần Vũ Hải được coi là người thấu hiểu, nắm nhiều tài liệu và vấn đề của ông Nhất. Mà vụ ông Nhất bị giam giữ hiện nay cũng được coi là một vụ án tạo dựng để nhằm loại bỏ việc ông Nhất – mà họ tin là – có thể cung cấp những hồ sơ mật liên quan đến các quan chức cao cấp. Vụ án được dựng nên cũng có thể coi là một cách trả thù. Tôi nghĩ sự có mặt của luật sư Trần Vũ Hải bị coi là nhiều khả năng đưa vụ án đến những diễn biến bất ngờ, nên họ cần phải chặn trước.
Ngoài ra, cần phải thấy con số 60 luật sư cả nước ghi danh bào chữa cho ông Hải, cho thấy ông là một người uy tín và có vai trò nổi bật trong giới. Sắp tới đây, Đoàn luật sư Hà Nội sẽ tổ chức bầu lại nhân sự ban chủ nhiệm và người đứng đầu đoàn luật sư Hà Nội. Có tin đồn đoán rằng phía cơ quan nội chính đang lo ngại cho các ứng viên mà họ chỉ định có thể gặp khó khăn với luật sư Trần Vũ Hải được đề cử. Do vậy chuyện loại bỏ ông Hải là cần thiết. Vụ án “trốn thuế” buồn cười này ra đời có lẽ là vậy.

Xin cám ơn Luật sư Lê Công Định cho cuộc trò chuyện này.

TK(ghi)

Saturday, November 9, 2019

Bức tường Berlin, câu hỏi nhân kỷ niệm 30 năm



Thế giới vừa nhắc tên việc sụp đổ của một bức tường dài đến 155 cây số. Berlin Wall, bức tường là biểu tượng của một phần nhân loại bị ám đỏ, tuyệt vọng và khao khát tự do. Ngày 9/11 năm 2019 đánh dấu 30 năm hàng hàng lớp lớp con người bước ra ánh sáng, chào nhau và dặn dò với mai sau, rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ là một thứ trá hình của cuộc hôn phối quái đản giữa chế độ phong kiến và độc tài hiện đại.
Nhưng ý nghĩa hơn nữa, đó là ngoài việc bức tường ô nhục Berlin sụp đổ, người ta nhìn thấy một cuộc tháo chạy, hốt hoảng đến điên cuồng của giới mật vụ, an ninh Stasi, vốn được coi là hung thần số một ở đằng sau bức màn sắt Đông Âu.
Không lâu sau khi hàng trăm người dân Đông Đức kéo nhau chạy qua đường biên giới, đánh dấu cho sự sụp đổ toàn diện đế chế cộng sản Đông Âu, hàng ngàn người dân cũng đổ xô, tràn vào các văn phòng của cơ quan mật vụ Stasi để lôi ra những hồ sơ mà ngày thường họ bị theo dõi, bị nghe lén, báo cáo... bao gồm luôn cả những người tìm kiếm tin tức thân nhân của họ đã bị an ninh bắt đi nhiều năm không còn tin tức.
Các nhân chứng vào giờ phút ấy, kể lại rằng nhân viên mật vụ Stasi cuống cuồng tiêu hủy các hồ sơ, nhằm tránh các cuộc phanh phui và trả thù của dân chúng, nhưng không kịp. Các máy hủy tài liệu chạy hết công suất, nghẽn hay cháy, khiến các nhân viên an ninh hoảng loạn xé bằng tay, nhồi vào túi hay thùng và đổ xăng đốt đi. Nhưng rồi các cánh cửa bật mở, đám đông giận dữ xông vào khiến những nhân viên Stasi phải buông tay, chạy trốn.
Ngày thường, các tay an ninh mặt sắt đen sì, cười kiêu ngạo, là nỗi ác mộng của hàng triệu người Đông Đức. Nhưng giờ đây, họ chỉ còn một mong ước cuối cùng là thủ tiêu những vết tích đã chống lại con người, chống lại ngay chính dân tộc của họ, và tháo chạy.
Tuy vậy, hàng triệu bản ghi âm, hình chụp, hồ sơ báo cáo... vẫn được giữ lại. Thậm chí những bản hồ sơ xé vụn cũng được các nhà hoạt động nhân quyền gom về, phục dựng, nối ráp. Thậm chí, vì khao khát tìm lại sự thật và công bằng cho các nạn nhân, suốt 10 năm, các nhà nghiên cứu ở Berlin Fraunhofer Institute vẫn tìm tòi và công bố bản nhu liệu E-puzzler có khả năng sao lưu, dùng thuật toán AI để gắn lại các mảnh vụn thành bản hoàn chỉnh, dựa trên tương ứng màu giấy, phông chữ, hình dạng... để phục vụ cho hồ sơ khoảng 3 triệu người Đức vẫn luân phiên nộp đơn về Federal Archives (Cơ quan lưu trữ liên bang) xin đọc và tìm kiếm về họ hoặc về người thân.
Nước Đức đã chi hơn 2 triệu Euro để phục vụ cho việc sao lưu và phục hồi các dữ liệu này, như một lịch sử của tội ác không chỉ ở riêng nước Đức, mà cả thế giới cũng không muốn quên. Có không ít người đã tìm thấy các văn bản điều tra, ép tội, bỏ tù mình khi các hồ sơ được phục hồi. Có không ít người tìm thấy thầy giáo hay bạn mình, chính là người đã mật báo về mình với công an.
Nước Đức tự do hôm nay ghi nhận rằng chủ nghĩa cộng sản đã tạo ra guồng máy an ninh mật vụ theo dõi, kiểm soát đến 5,6 triệu người Đông Đức bị coi là "phản động". Tức là khoảng 6 người dân thì có một nhân viên an ninh chính thức hay bán thời gian theo dõi. Mỉa mai thay, càng đồ sộ và tinh vi để trói buộc con người, vết tích của bộ máy an ninh độc tài càng lớn, khó mà che đậy.
30 năm sau cái chết của một nhà nước Cộng sản, sự tổn thương của người dân Đông Đức vẫn mới nguyên. Đặc biệt với các thành phần nghĩ rằng mình chỉ cắm cúi kiếm sống và chấp nhận chế độ nên sẽ thoát nạn. Thế nhưng khi đọc các hồ sơ theo dõi, tầng lớp đó lại sững sờ khi thấy họ cũng không vô can.
Có tin là chính phủ Đức muốn đóng lại toàn bộ các chứng tích đó vào năm 2020, như một cách khép lại quá khứ, chấm dứt sự căm hận không nguôi đang xâu xé con người. Trong đó, bao gồm việc cứu rỗi hàng chục ngàn cựu nhân viên Stasi vẫn nơm nớp sợ bị nhận mặt trả thù, hoặc đầy mặc cảm vì đã nhúng chàm theo một cách nào đó. Nhưng việc chính phủ muốn đóng lại kho dữ liệu này hiện cũng đối diện với sự phản đối của giới luật sư nhân quyền, các tổ chức xã hội dân sự và các nhà hoạt động. Lý giải cho việc có thể đóng lại kho lưu trữ này, một người từng làm việc cho Federal Archives nói rằng "một nhà nước văn minh ắt sẽ không thể hành động như cộng sản, tạo điều kiện cho con người căm thù và chà đạp nhau, và từ đó hưởng lợi".
Câu hỏi vẫn còn vọng lên, sau 30 năm thống nhất nước Đức, vì sao cũng cùng là con người, nhưng các chế độ độc tài cộng sản lại có thể biến một lớp người chỉ còn thú tính và thuần túy khao khát danh lợi. Không chỉ Stasi, mà cả KGB (Nga), Securitate (Rumani), AVH (Hungary)... đều là guồng máy giỏi tạo ra những nhân viên an ninh xảo quyệt và tàn nhẫn. Và họ, cũng là những kẻ chạy trốn nhanh nhất, giả dạng nhanh nhất khi triều đại nuôi dạy họ sụp đổ.
Nhưng vẫn còn một câu hỏi nữa, mà lịch sử vẫn đặt ra với mỗi chúng ta: có triều đại nào chống lại con người mà không sụp đổ?

Thursday, November 7, 2019

Chính trị, như gai nhọn dưới chân trần


Sự kiện của tháng 11/2019, khi tổ chức Operation Smile va chạm với dư luận quần chúng về việc mời diễn viên Thành Long từ Trung Quốc đến Việt Nam để kỷ niệm 30 hoạt động ở Hà Nội, đã trở thành một bài học về cuộc sống. Đặc biệt, là câu chuyện cứ sống, làm việc và “không quan tâm về chính trị”.

Phải nói rõ, tổ chức Operation Smile là một tổ chức NGO đáng kính trọng trong việc nỗ lực chữa lành những nỗi đau về thể chất của các em nhỏ. Công việc của họ đã trãi dài một cách đáng ngưỡng mộ qua các châu lục và năm tháng, kể từ khi thành lập vào năm 1982. Nhưng công việc của họ, và hình ảnh đại diện chung hay người đại diện ở mỗi quốc gia, lại là một chuyện khác.

Làn sóng phản ứng về việc Thành Long có mặt ở Việt Nam đã nhanh và mạnh đến mức, chỉ chưa đầy 24 giờ sau khi những lời phản đối đầu tiên xuất hiện trên facebook, hàng ngàn các bình luận của công chúng đã ngập trong fanpage của tổ chức Operation Smile với cùng một nội dung – mà mục đích cuối cùng là không muốn thấy sự có mặt của Thành Long làm xấu đi hình ảnh của tổ chức này.

Trong bài trả lời nhanh về sự bất bình của công luận, ông Nguyễn Việt Phương - trưởng đại diện Operation Smile tại Việt Nam - nói rất khéo rằng mọi việc diễn ra là do “không có kinh nghiệm về chính trị”. Đồng thời ông Phương cũng nhấn mạnh rằng "Chúng tôi là một tổ chức thiện nguyện nên luôn tôn trọng tất cả những sự tham gia trực tiếp ủng hộ tổ chức từ tất cả cá nhân”.

Dĩ nhiên, đó là cách xử lý khủng hoảng có vẻ hợp lý, nhưng đó cũng là câu hỏi đặt ra cho rất nhiều người Việt Nam, tổ chức từ thiện Việt Nam: Chúng ta có cần phải lờ đi mọi thứ về chính trị, chỉ để làm việc thôi – đặc biệt ngay vào lúc, chính trị đang bao vây mọi thứ, ngay cả trên đầu ngón tay gõ máy tính của chúng ta mỗi ngày?

Có không ít kinh nghiệm buồn từ trước. Tháng 8, năm 2008, ca sĩ Mỹ Tâm cũng vấp phải làn sóng phản đối, và vẫn còn được nhắc đến tận hôm nay, về việc cô đồng ý tham gia đoàn rước đuốc Olympic của Trung Quốc - đi qua Hoàng Sa như một phần lãnh thổ của họ - khi đuốc đến Sài Gòn. Đơn giản là cô không biết và không quan tâm đến chính trị.

Năm 2018, ca sĩ Mỹ Linh cũng vấp phải một làn sóng phản đối dữ dội khi tán thành về việc xây dựng nhà hát Thủ Thiêm, mà cô lại không đủ quan tâm để biết rằng nhà hát đó chỉ là giải pháp mang tính chạy chữa cho một sai lầm gồm máu và nước mắt của hàng ngàn con người, bị các quan lại cố tình cưỡng đoạt.

Chính trị vẫn hiện ra quanh chúng ta hàng ngày như vậy, dù lại một nụ cười tự nhiên hay là nụ cười cần phải điều chỉnh, chúng ta vẫn phải đối diện với nó. Việc từ chối Thành Long đến Việt Nam, không hoàn toàn là chuyện thù ghét cá nhân, mà là một thái độ của một dân tộc, của một quốc gia đã bị bức hiếp công khai hoặc thầm lặng về chủ quyền, về phẩm giá của một quốc gia.

Thờ ơ với nó, chúng ta - hay cả dân tộc này - như những đôi chân trần, luôn chực chờ đạp lên gai nhọn. Nhỏ máu và đau đớn.

Nếu những người đi làm từ thiện ở những làng biển miền Trung, chỉ biết giúp cho những người ngư dân khó nhọc mà không buồn biết đến vì sao họ không còn thể ra khơi tự do, không quan tâm vì sao họ bị đâm tàu, vì sao có những chiếc mộ gió. Sẽ không có đủ sự thấu hiểu tử tế cho câu chuyện từ thiện, nếu không tìm biết đến chính trị.

Chính trị hôm nay, nằm trong từng chén cơm, từ giọt xăng, từ một phút điện ảnh cho đến một trang sách giáo khoa có lẫn đường lưỡi bò. Bất hạnh của người Việt hôm nay, là phải ngóng xem kẻ thù bên ngoài đang âm mưu điều gì và xốn xang không yên vì căm giận những người có quyền như thích thờ ơ với chính trị.

Trung Quốc không bỏ lỡ một cơ hội nào để lấn vào cuộc sống của người Việt, đầu độc cảm giác bằng cách tạo sự quen thuộc với dối trá mà họ đã dựng nên. Đừng nghĩ rằng Bắc Kinh khờ khạo khi đầu tư hàng triệu USD cho những bộ phim của Hollywood, chỉ để gán ghép một vài điều thoáng qua, để vẽ nên điều họ muốn. Trung Quốc cũng không tự nhiên để tặng các giáo trình công phu, chỉ để gắn vào đó một trang bản đồ có đường chín đoạn. Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều lần du khách Trung Quốc đến Việt Nam lại mặc áo có bản đồ xiển dương cho đường lưỡi bò. Tất cả những những điều đó, âm thầm và dai dẳng để thay cho những phát ngôn chính thức của chính quyền Trung Quốc về một loại bá quyền, chà đạp lên chủ quyền của Việt Nam.

Hãy để Thành Long ở yên với suy nghĩ của ông ấy. Và khi nào ông ta không gắn liền với những vấn đề chính trị như đường lưỡi bò, hãy đến và cùng làm việc từ thiện với người Việt.

Bạn hãy nhìn lại bàn chân của chúng ta, đã đẫm máu chưa, nếu như ta vẫn nói không đủ kinh nghiệm về chính trị hay không quan tâm đến chính trị. Có thể chân bạn chưa có vết thương, nhưng lẽ nào bạn không cảm thấy bàn chân mình đang nhớp máu của những ngư dân bị bắn chết trên biển, hay máu những người lính ở biên giới phía Bắc, ở Gạc Ma vẫn còn chưa kịp khô?

Cuộc sống giờ đây là một bài học phức tạp, đừng nghĩ rằng chỉ cần sống với công việc là đủ, kiếm tiền, ăn ngủ, vui chơi là đủ. Cuộc sống đang đòi hỏi mỗi con người phải có nhận thức để kiểm soát các động cơ chính trị, hoặc thờ ơ và trở thành kẻ ngu ngốc bị chính trị lợi dụng.


Thursday, October 31, 2019

Trò chuyện với Đạo diễn phim Mẹ Vắng Nhà: “Làm người tốt thật khó, nhưng vẫn phải”



(Clay Phạm với kỷ niệm bị bắt và tra tấn trong công viên Tao Đàn, ngày 17/6/2018)




Chỉ trong một thời gian ngắn cuối năm 2019, người ta chứng kiến những cuộc ra soát và trừng phạt khắc nghiệt của nhà cầm quyền đối với giới văn nghệ sĩ độc lập. Sau khi nhận được giải thưởng ở hạng mục New Currents ở liên hoan phim Busan, ngày 14 tháng 10, bộ phim ngắn Ròm của  đạo diễn Trần Thanh Huy bị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phạt 40 triệu đồng và ra lệnh phải hủy “tang vật” vì dám gửi dự thi phim mà không xin phép. Đơn giản, bộ phim mô tả về những cậu bé bụi đời, bán vé số trên đường phố Sài Gòn với những hình ảnh chân thật về Việt Nam hôm nay.

Một ngày sau đó, những người đặt mua cuốn sách xuất bản tự do từ Hà Nội có tên “Thế thiên hành đạo hay đại nghịch bất đạo” của tác giả Phạm Thành bị công an chận bắt ở một quán cà phê tại quận 3, Sài Gòn. Nguời shipper giao sách cũng bị bắt và bị đánh. Nhiều ngày sau, nhiều người vẫn còn bị an ninh thường phục canh giữ nhà để theo dõi.

Đến 25 tháng 10, nhà làm phim độc lập Thịnh Nguyễn ở Hà Nội bị công an bắt giữ và lục soát nhà, mà không trưng ra được bất kỳ một loại giấy tờ hợp pháp nào, mà mục đích là tìm chứng cứ và thẩm vấn Thịnh Nguyễn xem có phải là người thực hiện bộ phim tài liệu Đừng Sợ, về thảm nạn Formosa hay không.

Không khí nặng nề bao trùm lên giới văn nghệ sĩ ở Việt Nam. Thời điểm này nhắc đến những ngày tháng mà vì một bài hát, Việt Khang có thể đi tù, Trần Vũ Anh Bình có thể bị xem như là thành phần phản loạn. Thời điểm này làm nhớ lại Văn Đoàn Độc Lập trao giải thì bị cắt điện, công an hăm dọa người đến tham dự, và cả giám đốc xuất bản Chu Hảo bị đấu tố, trừng phạt vì đã in những loại sách khai trí.

Không khí nặng nề này cũng nhắc đến Clay Phạm, nhà đạo diễn trẻ, khi thực hiện bộ phim Mẹ Vắng Nhà, nói về những đứa con của Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã lớn lên, sống và chiu đựng như thế nào cùng bà ngoại khi mẹ của chúng bị ghép một án tù. Clay Phạm với những hình ảnh mô tả đời sống rất bình thường của mình, nhưng đã đưa cuộc đời anh vào một ngã rẻ khác: Anh không thể quay về nhà, không thể sinh sống như mọi người khác, anh trở thành một nhân vật bị đưa vào tầm ngắm của những hiểm nguy chực chờ.   

May mắn có được cuộc trò chuyện với Clay Phạm qua điện thoại internet – từ một nơi nào đó rất xa xăm – từ đó được anh kể rất nhiều về sự ẩn thân của mình, về mơ ước thực hiện những dự án phim tài liệu mới, về chọn lựa của mình… Clay Phạm nói anh vui mừng vì nhìn thấy hôm nay, nhiều nghệ sĩ, trẻ hơn cả anh, đã chọn việc mô tả hiện thực, sống với lương tâm và trái tim nghệ sĩ. Anh cảm thấy mình không cô đơn khi tiếp tục đi con đường của mình.

Xin ghi lại một ít, về cuộc trò chuyện với anh, như một cơ hội giới thiệu thêm tiếng nói của một nghệ sĩ tự do và yêu thương con người, yêu thương đất nước của mình.

Clay Phạm đã quan tâm đến thời sự và hiện thực xã hội từ khi nào, và vì sao?
-          Tôi không nghĩ mình quan tâm lắm đâu, mà thực sự chỉ là muốn mô tả hoàn cảnh của 2 em nhỏ, con của chị Quỳnh, như một sự chia sẻ, thông cảm về hoàn cảnh của một người phụ nữ phải chịu tù tội khi lên tiếng cho chuyện chung. Thậm chí tôi nghĩ đó là một cuốn phim tình cảm gia đình hơn là ý nghĩa chính trị. Nhưng khi hoàn thành, mọi thứ đã vượt ra khỏi suy nghĩ của mình, tạo ra những biến động cho đời mình. Tuy vậy, phải nói là trong giai đoạn làm phim, tôi phải gần như là cải trang như dân địa phương để không gặp khó khăn, đặc biệt là trong sự bảo vệ rất chặt chẽ của mẹ chị Quỳnh. Cuối năm 2017, tôi bị bắt tại sân bay khi định làm một chuyến ra nước ngoài. Công an không có lý do gì để bắt tôi, nhưng qua camera theo dõi trước nhà chị Quỳnh, họ nghi ngờ vì thấy tôi xuất hiện rất thường xuyên. Tôi bị ngăn không cho bay, bị thẩm vấn và tịch thu tất cả máy quay, máy tính… mà không cần lý do gì cả. Tôi lang thang từ đó. Có một thời gian tôi ở gần chỗ của chị Phạm Đoan Trang và giúp vài việc lặt vặt cho chị ấy. Nhưng với công an, đó là chuyện không còn bình thường, và tôi trở thành người bị đẩy vào thế không thể quay trở về cuộc sống bình thường.
Vậy cuộc sống hiện nay của Clay Phạm ra sao?
-          Tôi nhận ra mình đã chọn một hành trình của đời mình, hết sức phức tạp nhưng tôi không hề tiếc nuối vì đã chọn. Từ tháng 6 năm 2018, khi tham gia biểu tình chống luật đặc khu và an ninh mạng và bị lôi vào Tao Đàn tra tấn, đánh đập, tôi chưa gặp lại gia đình mình. Và tôi tiếp tục lang thang và suy nghĩ về những dự án mới.
Với chuyện của phim Ròm, việc anh Thịnh Nguyễn bị bắt, Clay Phạm có suy nghĩ gì?
-          Đã có rất anh em chịu những thứ còn nặng nề hơn. Chẳng hạn như tôi muốn nhắc đến bạn Nguyễn Văn Hóa chẳng hạn, người dùng drone quay cuộc biểu tình chống Formosa nhưng bị đến 7 năm tù. Do đó những điều đánh đổi của tôi rất nhỏ. Nhắc về chuyện của anh Thịnh Nguyễn, tôi hiểu và tôi tin rằng muốn là một người tốt, một người trung thực ở Việt Nam là một điều khó khăn, nhưng đó là sự chọn lựa và phải chấp nhận cái giá của nó. Tôi tin là anh Thịnh Nguyễn không nao núng trước điều này, và tôi cũng vậy, tôi cũng không thể từ bỏ con đường của mình đã chọn. Rồi sẽ còn nhiều người nữa sẽ nối bước với anh Thịnh Nguyễn hay với tôi, hay bất kỳ người nào khác đang lên tiếng bằng nghệ thuật và ôn hòa. (…)

Ngừng cuộc nói chuyện với Clay Phạm, cảm giác trong tôi thật khó tả. Cũng như nhiều người trẻ khác mà tôi chưa gặp mặt, họ nuôi trong mình sự mạnh mẽ và lạc quan đến đáng ngưỡng mộ. Hỏi rằng họ có sợ hãi không có lẽ hơi thừa. Vì sợ hãi là có thật, giống như cảm giác nóng, lạnh hay đói… họ có thể thản nhiên đi qua đó và giữ nguyên vẹn một tinh thần tự cam kết với mình, rằng sẽ sống với sự thật, sống với lẽ phải, sống và đứng về con người và không phục vụ cho bất kỳ một loại thế lực đen tối nào.

Những người trẻ đó luôn mang trong mình niềm hy vọng vào sự đổi thay tốt đẹp. Và họ cũng trao tặng niềm hy vọng cho chúng ta, hôm nay.

Tuesday, October 29, 2019

Mỗi người một ước mơ


Đi cùng với sự hình thành nền văn minh nhân loại, là những giấc mơ. Những ước mơ riêng của mỗi con người đã tạo nên một thế giới đầy khát vọng và kỳ diệu của loài homo sapiens, so với các loài khác cùng tồn tại trên hành tinh. Lịch sử đã ghi lại rằng, đôi khi chỉ cần một ước mơ của Gandhi hay của Luther King, thế giới phải chuyển mình.
Và cũng có vô số những giấc mơ nhỏ bé và giản đơn, dù thành công hay thất bại, nhưng đã góp phần tạo dựng nên một hình dạng độc đáo khác thường của giống loài duy nhất trên địa cầu – loài động vật có khả năng ngôn ngữ và mơ ước.
Ai biết được những người Việt tử nạn trên chiếc xe thùng đông lạnh, tìm cách vượt biên giới vào Anh đã ôm ấp những ước mơ gì. Mỗi số phận là một câu chuyện. Và những câu chuyện đó phác thảo hình ảnh về nơi chốn mà họ đang sống.
Những đoàn người Kurd hôm qua tất tả chạy dạt khỏi vùng biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, phác thảo một số phận dân tộc long đong và cam chịu. Họ không có bạn, chỉ có đồng minh giai đoạn và kẻ thù luân phiên.
Một người tài xế Uber người Armenia kể với tôi về quê hương của anh, và lý do anh lưu lạc đến Úc. Câu chuyện đời và ước mơ ra đi của anh, phác thảo về vùng đất Artsakh tuyệt đẹp cổ xưa, mà nay những người thương buôn quằn mình chịu nạn băng đảng đến từ Nga.
Đi theo dòng người im lặng tràn vào Châu Âu, đặc biệt là vào Anh Quốc, rất nhiều người Việt đã cùng người Trung Quốc, Eritrea, Ethiopia, Sudan, Afghanistan… lẻn vào để làm đủ thứ nghề, từ làm móng tay đến giữ trẻ, quét dọn… và cả trồng cần sa cho các đường dây buôn bán ma túy. Những câu chuyện đó phác thảo một phần của thế giới nghèo đói, bất an, không tương lai đang giẫy giụa, túa ra và chạy về hướng mà họ tin rằng sẽ tìm thấy sự khác biệt.
Những ngày xuất hiện câu chuyện 39 người tử nạn ở Anh Quốc, bất kỳ ai theo dõi cũng nhận ra dư luận người Việt chuyển động dữ dội. Một vài ngày đầu, sự kinh hoàng và thương cảm xuất hiện, rồi sau đó xuất hiện sự chỉ trích và miệt thị đầy chủ đích nhằm định hướng dư luận, kéo theo sự đồng ý của không ít người. Mục đích có thể là xô ngã mọi sự thương tâm, nhằm đánh lạc hướng việc xã hội đang nghĩ đến lý do vì sao nhiều thanh niên ở Hà Tĩnh, Nghệ An phải ra đi, vốn là nơi đời sống khó khăn, và nay lại càng khó khăn hơn kể từ khi Formosa xả độc ra biển, hủy diệt việc mưu sinh của hàng triệu người.
Ai có quyền đánh giá ước mơ hay phẩm giá của những người trẻ đó? Ai có quyền gọi họ là liều lĩnh hay ngu xuẩn vì không chấp nhận hiện tại? Nếu giả sử chẳng may trong lịch sử, chiếc tàu buôn Latouche-Tréville chở anh thanh niên Văn Ba bị đắm ngoài khơi năm 1911, hôm nay, tên gọi về Nguyễn Tất Thành là gì, nhất là khi anh ta không chịu yên phận và chấp nhận cuộc đời một thầy giáo dạy chữ Hán ở trường Dục Thanh của Hội Liên Thành?
Dù là vô danh, nhưng chắc những thanh niên Việt qua đời trên chiếc xe thùng đông lạnh cũng đã ôm ấp những ước mơ thầm kín của họ. Dù có là nhỏ bé hay nghèo hèn, nhưng đó là lựa chọn và sự chấp nhận đánh đổi trong khả năng của họ. Họ không đổ lỗi nơi chốn của họ, không căm ghét hay phỉ báng quê hương mình, cho dù nơi đó, có thể là những ngày tháng họ sống mòn, với những đầy đủ quẩn quanh vô vị… Nếu họ muốn ra đi để thay đổi cuộc đời nghèo khó, điều đó đã đau xót. Nhưng họ đủ sống như vẫn muốn ra đi, điều đó lại càng đau xót hơn, đáng chất vấn hơn, đặc biệt số lượng người ra đi và muốn ra đi gấp nhiều lần 39 người từ nạn, suốt nhiều năm qua.
“Đừng đổ lỗi cho chế độ” – những luận điệu hoảng hốt, chối bỏ đang vang lên từ nhiều hướng, dù các nạn nhân hay gia đình của họ vẫn còn chưa nói đến điều này. Ngay những dòng tin nhắn cuối cùng, cô gái trẻ nạn nhân chỉ nói xin lỗi mẹ mình. Những bia mộ chưa được dựng, người ta đã nghe thấy tiếng phủi tay. Tương tự như sau năm 1975, hàng triệu người miền Nam Việt Nam ra đi, họ cũng đã bị chối bỏ trước khi họ kịp lên tiếng nói về chế độ. Trong sách Bên Thắng Cuộc của tác giả Huy Đức, có ghi “ngày 20-7-1979, Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc triệu tập một hội nghị về thuyền nhân Việt Nam tại Geneva với sáu mươi quốc gia tham dự. Tại hội nghị, Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Nguyễn Cơ Thạch, nói “thuyền nhân” chỉ là “những phần tử bất mãn của chế độ cũ, những kẻ có nợ máu với nhân dân, những thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động”.
Trên đất nước được quảng cáo đầy những chỉ số hạnh phúc, 45 năm sau ngày thống nhất địa lý, con người vẫn cứ ra đi. Mỗi người vẫn bí mật mang một ước mơ của mình. Quan chức thì thực hiện giấc mơ cho con cái của mình định cư, tạo tài sản ở nước ngoài. Những người giàu thì mua quốc tịch, chờ một chuyến ra đi, hoặc đi du lịch rồi trốn ở lại. Người quyền thế thì nhẹ nhàng đi cùng chuyên cơ quốc gia để nhập cư lậu. Còn những con người nghèo khó thì chọn lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc, nộp đơn bán sức lao động hoặc chọn hành trình bí mật để với tới ước mơ.
Giờ đây, đất nước tôi, rộn rịp những ước mơ mang hình giai cấp.

Friday, October 18, 2019

Từ biệt một người biết liêm sỉ




Từ biệt ông Hà Văn Thịnh, giảng viên đại học ở Huế. Ông vừa mới qua đời ngày 17/10, vào lúc được 64 tuổi.
Ông Thịnh là người tôi chỉ biết, không quen, nhưng lại kính trọng và nhớ, từ câu chuyện liên quan đến Đức Giám Mục Ngô Quang Kiệt.
Ông là người tham gia viết bài trên báo chí nhà nước và có lúc nổi bật trên dư luận với bài viết tấn công dữ dội Đức Giám Mục Ngô Quang Kiệt, sau khi nhận được cuốn băng video cắt ghép đầy chủ ý những lời phát biểu của ngài.
Lúc đó, năm 2008, Đức Giám Mục Ngô Quang Kiệt phát biểu rằng ngài cảm thấy buồn và nhục nhã khi ra nước ngoài, cầm hộ chiếu Việt Nam Nam và hiểu rõ vị thế của đất nước mình thông qua cách nhìn của nhân viên hải quan các nước.
Thế nhưng qua bàn tay phù phép nào đó, lời phát biểu này đã bị cắt ghép trở thành một tuyên bố phỉ báng con người và đất nước Việt Nam và chuyển đến cho ông Hà Văn Thịnh.
Sau đó, ông Thịnh đã có bài viết tấn công dữ dội với những lời lẽ nặng nề nhắm vào Đức Giám Mục Ngô Quang Kiệt.
Giải thích về hành động của mình, ông Hà Văn Thịnh có viết trong bức thư ngỏ của mình rằng “qua đây, cũng xin nói cho rõ ‘vụ’ này. Hồi ấy, tôi là cộng tác viên thường xuyên của báo Lao Động. Viết với đam mê và trách nhiệm thực sự của nghĩ suy là mình luôn bảo vệ cái đúng, chống lại những điều sai (ấu trĩ, ngây ngô, ngu dốt...; để cho độc giả và quý vị xa gần phán xét, mặc nhiên tôi không phàn nàn hay khiếu nại). Một lần, tôi nhận được điện thoại của ông Tô Quang Phán, Phó TBT (nay là Tổng BT Hà Nội Mới), nói rằng Tổng GM Ngô Quang Kiệt tuyên bố cầm hộ chiếu Việt Nam thấy nhục nhã, hãy viết ngay một bài bình luận về sự kiện trên....
Nhận được lệnh, với thông tin 8 chữ, tôi viết liền cho kịp bài báo để mai đăng, sau khi đã đọc lại toàn bộ Kinh Thánh. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu nổi, vì sao chỉ sau có mấy tiếng đồng hồ, vừa đọc Kinh Thánh lại vừa viết ra được bài báo tổng hòa và tận cùng của nỗi đau, sự xấu hổ mà không hề có một thoáng mảy may băn khoăn về chuyện đúng, sai? Xem ra, sự đui dốt, thỏa thê khó tìm thấy giới hạn”.
Suốt quá trình đó, Đức Giám Mục Ngô Quang Kiệt đều im lặng. Ông đón nhận sự tấn công vào mình, ở mọi phía, với sự nhẫn nại đáng kính trọng.
Nhưng rồi, một thời gian sau, khi ông Thịnh tìm thấy được toàn vẹn lời phát biểu của Đức giám mục Ngô Quang Kiệt, ở vị trí là một trí thức và một người có liêm sỉ, ông đã công khai viết thư ngỏ, nhận mình đã sai, và cầu xin sự tha thứ của của Đức giám mục Ngô Quang Kiệt.
Lá thư có đoạn như sau: “Tôi đã như một kẻ đui mù thách đấu với Tổng GM Ngô Quang Kiệt chỉ bằng cái sinh tử lệnh có 8 chữ, tức là bằng đúng một nửa của 16 chữ vàng cắt dán! Lỗi lầm và đau xót đang được đo bằng sự ê chề. Tôi chỉ còn biết sùng kính ngước nhìn lên và nói tới hai chữ: Cầu Xin!”
Ông cũng đã nhận được cái chìa tay thương mến từ Đức Giám Mục sau đó.
Ngay lập tức, nhiều bài viết của phía nhà nước cũng bắt đầu xuất hiện, tấn công và gọi ông là kẻ phản bội.
Câu chuyện của ông Hà Văn Thịnh, nó xứng đáng như là một bài học giáo khoa về con người và thế sự trên đất nước Việt Nam.
Nó chứng minh rằng con người là một sinh vật luôn bị lợi dụng bởi các loại chủ nghĩa, và luôn trở thành nạn nhân của chính mình trong thời đại kẻ ác có đủ các loại mặt nạ chính nghĩa.
Hôm nay khi nhắc đến ông, Hà Văn Thịnh, với những cuộc tấn công điên cuồng vào một con người đáng kính, thì nay dường như đã rơi vào quên lãng. Người ta chỉ nhớ đến ông với chân dung hiếm hoi và tiêu biểu của một trí thức biết đau vì bị lừa dối, biết cất tiếng để dựng lại sự thật, bất chấp đánh đổi vị trí của mình mình đang được tung hô.
Chỉ có đủ liêm sỉ và sự cao quý trong tâm hồn thì ta người mới có thể công khai quỳ xuống, từ bỏ bóng tối mà mình đã mang vác để đối diện với ánh sáng.
Hà Văn Thịnh xứng đáng nhận được sự thương mến và kính trọng của những người nhớ đến ông. Đặc biệt giữa thời đại đầy những kẻ khoác áo trí thức, tử tế mà giả nhân giả nghĩa.




Wednesday, October 9, 2019

Nhớ về nhà thơ Du Tử Lê




Nếu nhớ về một Du Tử Lê tài hoa trong chữ nghĩa, trong thi ca, ắt đã có nhiều người viết. Hôm nay có lại viết cũng thừa. Nhưng nói về Du Tử Lê đã sống thế nào trong cái yêu ghét của người Việt, cái đó có lẽ ít người viết. Đặc biệt là yêu ghét đã nổi gió kể từ khi ông về lại Việt Nam sau nhiều năm tỵ nạn.
Nhưng thật ra, không chỉ riêng Du Tử Lê, văn nghệ sĩ nào của người Việt miền Nam Việt Nam tự do từng rời khỏi nước sau tháng 4/1975, khi quay lại quê nhà, đều là những người đi ngược gió.
Năm 2005, nhạc sĩ Phạm Duy về Việt Nam sinh sống. Đó là một cơn bão chứ không là gió. Những kẻ chống ông quay về, từ trong nước có cả kẻ thù và có cả người quen. Những người giận dữ đặt tên ông là phản bội, là cơ hội… thì ở chung quanh nơi ông sống. Là Midway city, nơi mà ông chỉ ký dưới thư tay bằng tiếng Việt – thị trấn giữa đàng – khi gửi cho tôi, thời chưa có internet. Vào những ngày ông đau yếu ở quận 10, Việt Nam, tôi đến thăm và hỏi rằng “Bác thấy hài lòng khi về sống ở VN chứ?”. Ông lắc đầu cười khẽ, nói “câu trả lời chính xác, là tôi hài lòng được chết nơi quê hương của mình”.
Năm 2012, khi ca sĩ Khánh Ly lần đầu được Hà Nội cho phép vào nước. Bà đã đi xuyên qua những lời miệt thị, phỉ báng đến rợn người để về lại Sài Gòn. Khi tôi hỏi rằng bà quay về với suy nghĩ gì. Bà đã cười và hỏi ngược lại tôi “Khi em chạy về quê nhà của mình, em nghĩ gì?”.
Từ 2014, Du Tử Lê đã có những chuyến đi về Việt Nam, đến năm 2016 thì người ta thấy ông xuất hiện trong những buổi ra mắt sách in ở Việt Nam. Dĩ nhiên, ông cũng bị tấn công không ngớt, bị gọi là thằng hèn, kẻ hám danh… Trong một lần ngồi café với ông ở Garden Grove, thành phố nơi ông sống, tôi thấy ông đột nhiên trầm ngâm rồi cười như một mình, nói với tôi “Nếu giờ này, anh và em ngồi ở một quán café nào đó Sài Gòn thì hay biết mấy nhỉ”. Đuôi mắt ông nheo nheo, ẩn trong nụ cười là một nỗi buồn vô hạn.
Điều đó, tôi hiểu. Không chỉ văn nghệ sĩ mà bất kỳ con người nào bị buộc phải rời khỏi quê hương trong bất toại, đều là những vệt ám ảnh trong ký ức. Đau đớn hay hạnh phúc, họ đều muốn được tận hưởng với hơi thở quê nhà. Họ cần hít hà nguồn cội đó, hít hà để nhớ và để chết. Hít hà như những kẻ nghiện nơi chốn của mình.
Những ngày đi xa, ngồi trên máy bay về Việt Nam có lẫn nhiều người đã tha hương rất lâu, có trẻ, có già… tôi chứng kiến khi chiếc máy bay sà xuống, khi những khối nhà và con đường hiện lên, nhiều người đã xúc động kêu lên “tới rồi, tới Sài Gòn rồi…”. Những cái đầu vói nhìn qua cửa sổ, những lời bàn về chỗ sắp đến của họ râm ran khắp các ghế. Quê hương như một liều doping mầu nhiệm, trong phút chốc mọi người phấn chấn và tạm quên vì sao họ bị bứt khỏi nơi này, tạm quên nơi họ đến, là nơi những người cộng sản cầm quyền chứ không như ngày xưa ấy.
Cũng vì vậy mà trong lịch sử, mọi chế độ độc tài đều muốn cầm giữ quê hương và dân tộc như một loại con tin để mặc cả với tương lai, để hành hạ con người, tra tấn sự yêu thương.
Từ những điều đơn giản đó, mà tôi cảm nhận được nhiều hơn với chuyện quay về. Du Tử Lê từng bị gọi là ham tiền, hám danh… khi quay lại Việt Nam, nhưng thật ra, tôi tin là ông, cũng như Phạm Duy hay Khánh Ly, tìm thấy nhiều điều khác hơn, sâu thẳm hơn so với những lời kết tội đó. Mỗi người có một lý do của mình, và họ có quyền im lặng, quyền chọn vào sự phán xét cuối cùng ở tương lai chứ không bởi một cá nhân hay một cộng đồng nào.
Trong giai đoạn còn khỏe, Du Tử Lê hay gặp vài thân hữu khép kín vào buổi sáng. Ngày chẳn thì ở một quán café tại Westminster, ngày lẻ thì ở một quán Bún bò Huế tại Garden Grove. Các câu chuyện về văn chương và cuộc đời với nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ, nhà báo Vương Trùng Dương, nhà báo Ngọc Hoài Phương… vẫn thời sự nhưng rồi, bao giờ đề tài Việt Nam và quá khứ luôn là chính. Có những lúc nhìn họ, tôi tự hỏi vì sao họ có thể nói về Việt Nam và một thời mãi không chán. Họ như những đứa trẻ đầy ký ức luôn cười khúc khích và sôi nổi tranh nhau khi kể về.
Rồi tôi cũng chợt nhìn thấy trong những văn nghệ sĩ Việt bị gọi là lưu vong đó, một cách giải thích khác trong chuyện quay về. Với họ, quê hương là mẹ, là mãi mãi với cuộc đời của họ. Chế độ chỉ là giai đoạn. Và nếu người mẹ bị cầm giữ, thì dù phải luồn lách thế nào, họ cũng chấp nhận để được chạm vào, để được nhìn thấy.
Trong một lần nhà thơ Du Tử Lê lấy xe đưa tôi về, trên đường đi bất thần tôi hỏi “anh có nhận biết ngoài những người yêu mến anh, còn rất nhiều người ghét bỏ anh không?”. Ông sựng lại ít giây, rồi mặt rất nghiêm “anh biết chứ. Anh đã không làm vừa lòng rất nhiều người. Không có nghĩa là anh đã đúng và tử tế hoàn toàn đâu Nhưng anh thấy mình vui vì không chối bỏ, và thật sự biết vì sao mình làm như vậy”.
Có rất nhiều điều trong đời, không cần người phải biết, nhưng riêng mình biết, trời biết. Khi chiếc xe của ông đi khuất, đứng lại trên con đường vắng với gió nhẹ mùa hè, tôi thấy mình thấu hiểu hơn, dung nhận rõ nỗi cô đơn của người-trong-cộng-đồng- người.
Và hôm nay, khi nghe tin nhà thơ Du Tử Lê qua đời, tôi tin có không ít đồng loại cúa mình, cũng đang mỉm cười và cô đơn đến cuối cùng.
Em đã nói giúp suy nghĩ của anh rồi đó. Hẹn gặp lại anh, Du Tử Lê.
------------------
TB: Tấm ảnh tôi “rình” chụp ông tại quán café thường ngày, khi đưa ra, ông bật cười và nói “anh nhìn bụi đời dữ vậy Khanh”.

Friday, October 4, 2019

Chút kỷ niệm chưa kể về nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm

Nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm là một tác giả có nhiều tác phẩm nổi tiếng rất sớm trong sự nghiệp của mình. Sống kín đáo và khiêm tốn nên công chúng hay nhầm tác phẩm của anh với người khác, chẳng hạn bài Tháng Sáu trời mưa (Thơ Nguyên Sa) luôn bị đề sai tác giả là Ngô Thụy Miên. Các bài khác như Trả lại thoáng mây bay, Lời tình buồn, Vực thẳm tình yêu... cũng hay bị lầm tác giả.

Thậm chí, trang youtube của anh, có gần 10 triệu views, thỉnh thoảng cũng bị công ty này xóa bài, cảnh cáo... vì vi phạm bản quyền của... nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm, mặc dù trên video anh vừa đàn vừa hát bài chính chủ.

Nhạc sỹ Hoàng Thanh Tâm sống tại Úc Đại Lợi từ hơn 30 năm, nhưng cũng nhiều người lầm rằng anh sống ở Mỹ hoặc Việt Nam.

Những năm 80, sống trong lòng một Việt Nam nghèo khó, bất định, u tối bởi bị cấm vận từ nhiều nước trên thế giới, bài hát Tháng Sáu trời mưa của nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm vang lên đứt đoạn trên làn sóng phát thanh của VOA là một ký ức khó quên của tôi. Bài hát ấy phát đến vài lần nhưng tôi không lần nào kịp thu lại, buồn ngẩn ngơ, tiếc như thoáng thấy một làn da xuân thì ngà ngọc bước qua, mà không biết khi nào mới có dịp gặp lại.

Bài hát ấy như giọt mưa mát đêm tối trời, giữa đô thị tối đen ngày không điện khiến một thằng bé cảm nhận điều gì đó kỳ lạ về tự do, về cái đẹp giữa giai đoạn mà nó vẫn thấy các nhóm thanh niên mới và  công an ập vào nhà, lục tung, đem sách-vở-nhạc tiếng Pháp, Anh, Việt... mang đi hoặc đốt trước cửa gia chủ.

Âm nhạc vây quanh tôi bấy giờ là gì? Là những bài hát ca ngợi anh bộ đội, ca ngợi một cuộc tiến công hoàn thành mà nhiều người miền Nam run rẩy khi lắng nghe. Âm nhạc lúc bây giờ không có gương mặt thật của con người mà chỉ có hiệu lệnh và sự kiêu ngạo của kẻ tất thắng.

Nói như vậy để biết rằng âm thanh của những bài hát như Tháng Sáu trời mưa đã tác động như thế nào với những đứa trẻ, như tôi, vào giai đoạn ấy. Nếu không có có ngôn ngữ tình yêu và sự cao đẹp của văn chương, có thể tôi cũng là một đứa bé lớn lên chỉ biết nghe hiệu lệnh và kiêu ngạo ngu xuẩn.

Khi tôi kể cho nhạc sĩ Hoàng Thanh Tâm nghe cảm giác của mình khi ấy, anh vừa ngạc nhiên, vừa không ngạc nhiên, vì bởi hơn 30 năm xa Việt Nam, anh chưa bao giờ thôi dõi nhìn về.

Và có thể sự sâu sát về thời sự Việt Nam của anh trên fb, khiến công chúng cũng không ít người nghĩ rằng anh ở đâu đó trong Việt Nam, và rất... già yếu.

Và cả hóm hỉnh nữa. Một buổi sáng gặp anh, tôi được anh bắt tay và hỏi rất nghiêm nghị "Y dược của em hôm nay thế nào?". Tôi ngẩn người "Em có học hành gì y dược đâu?".
Anh cười rất hóm "là sức khỏe đó, không phải trong nước đang định đổi tên y dược thành sức khỏe sao?"

Đừng ngạc nhiên, nếu một ngày nào đó, tôi gặp bạn và cũng mở lời "hôm nay y dược thế nào?". Nụ cười bạn có, sẽ nhắc nhớ về một nhân vật thú vị tên Hoàng Thanh Tâm, nhạc sĩ.