Đó là một ngày mùa xuân lạnh lẽo bất thường ở Huế. Mùa xuân
1968. Một người cảnh sát tên Dũng bất ngờ khi thấy những người lính đối phương cầm
AK tràn khắp thành phố Huế. Cuộc tiến chiếm và bắt giữ rất nhiều thường dân và
viên chức chính quyền thành phố đã người diễn ra nhanh chóng trong vài ngày Tết,
mà nhiều tài liệu sau này ghi lại, cho biết các thành phần Việt Cộng nằm vùng
đã âm thầm lên danh sách theo từng tổ, từng tuyến và từng khu vực. Tính bất ngờ
khiến cho những người lính phía Bắc Việt nắm ưu thế ngay lập tức. Nhưng Dũng là
một người khá may mắn trong phút đầu, vì ông được người nhà nhanh chóng đưa ra
sau vườn, đào một cái hố nhỏ và núp ở dưới trong nhiều ngày.
Vào đêm 30 Tết, tức ngày 29/1/1968, khi mọi người dân tin
vào lệnh hưu chiến được quân đội Bắc Việt ký kết với phía miền Nam Việt Nam và bắt
đầu nghỉ ngơi, đốt pháo ăn Tết, thì rạng sáng mùng 1 tết, những tiếng súng đầu
tiên hòa lẫn với tiếng pháo đã khởi đầu cho một sự kiện đẫm máu trong lịch sử
chiến tranh Việt Nam: thảm sát Mậu Thân tại Huế.
Mỗi bên đều có ngôn ngữ riêng để nhắc lại giờ phút quan trọng
này. Chính quyền Sài Gòn thì diễn đạt rằng Việt Cộng đã “phản bội lại hiệp ước
đình chiến” 3 ngày Tết đã ký. Còn phía Hà Nội thì diễn giải rằng hành động đó,
là “cướp thời cơ”.
Không chỉ có Huế. Tết Mậu Thân 1968 ghi dấu một cuộc tấn
công bất ngờ và đồng loạt của quân đội Bắc Việt vào 25/44 tỉnh lỵ và thị trấn của
phía miền Nam Việt Nam lúc đó. Vào sáng ngày mùng 1 Tết (30/1/1968),trên đài
phát thanh quốc gia Saigon, cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố phía miền
Bắc đã vi phạm việc ký kết hưu chiến trong dịp Tết, và ngay sau đó tuyên bố hủy
bỏ lệnh ngưng bắn của phía Việt Nam Cộng Hòa để chính thức mở các cuộc phản
công.
Cuộc chiến này, do sự hỗn loạn về truyền thông mà nhiều năm
sau, người ta mới có được những số liệu tương đối chính xác. Vào khoảng 3 giờ 40
sáng ngày 30/1, những tiếng súng pháo cối từ phía núi nã vào thành phố Huế,
chính là hiệu lệnh cho khoảng 80.000 binh lính chính quy Bắc Việt và quân nằm
vùng đã tràn vào kinh đô cổ kính của Việt Nam, nơi có khoảng 140.000 dân sinh sống
ở đó.
Lực lượng tương quan được xem là bất cân xứng, vì thuận theo
hiệp ước đình chiến ngày Tết, Huế lúc đó - được sách The Tet Offensive: A
Concise History and Abandoning Vietnam ghi lại – chỉ có khoảng 200 lính Mỹ
và các nhân viên người Úc thuộc sư đoàn 1 đồn trú ở đó, cùng một số cảnh sát và
binh lính địa phương không đáng kể.
Suốt trong nhiều ngày, người nhà của ông Dũng đã kinh hoàng chứng
kiến các vụ xử bắn ngay trước hiên nhà mình, được gọi là “trừng trị bọn phản
cách mạng”, mà trong đó có cả những thường dân không hề biết sử dụng vũ khí.
Hàng loạt các vụ bắt và đem đi mà người ta không biết là về đâu. Mùng 7, là
ngày diễn ra rất nhiều các vụ bắt bớ mang đi mất tích. Khiến rất nhiều gia đình
ở Huế, cho đến tận hôm nay vẫn chọn ngày mùng 7 Tết để làm giỗ chung cho người
thân cho mình.
Phía trước nhà ông Dũng là một khoảng ruộng. Tiếng súng nổ
giật bắn thỉnh thoảng từ đó vang lên, như báo hiệu cho những người sống quanh
đó rằng đã có ai đó bị hành hình, chôn vội… mà không có tòa án hay một tội danh
đúng.
Khắp nơi trong thành phố như vậy. Sau 25 ngày Huế bị tạm chiếm
bởi quân đội Bắc Việt, người ta tìm thấy nhiều hố chôn người tập thể, nhiều nơi
xác người chôn sống. Các con số tổng kết tại Huế cho thấy các nạn nhân bị thảm
sát được tìm thấy tại trường tiểu học Gia Hội, chùa Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng
Viện, khu vực phía Tây Huế gần lăng Tự Ðức và lăng Ðồng Khánh, cầu An Ninh Thượng,
cửa Ðông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần
lăng Gia Long, gần chùa Tường Vân, Ðông Gi (Di), Vinh Thái, Thuỷ Thanh, Lương
Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thương Hòa, Vinh Hưng, Khe Ðá Mài... tất cả
22 địa điểm, tìm
thấy được tổng cộng 2326 sọ người trong số 6.000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên
và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị
bắt đi thủ tiêu, mất tích...
Không chỉ có người Việt Nam giết người Việt Nam. Trong quyển
Tet, của nhà báo Don Oberdorfer, xuất bản năm 1971, cho biết có những người như
Stephen Miller (28 tuổi) nhân viên Sở ngoại vụ và thông tin Hoa Kỳ bị trói mang
ra sau một chủng viện Công giáo để hành hình. Các bác sĩ người Đức Raimund
Discher, Alois Alteköster, và Horst-Günther Krainick cùng vợ của ông với công
việc là giảng dạy về y tế cũng bị dẫn đi. Sau khi quân đội miền Nam Việt Nam
tái chiếm Huế, người ta tìm thấy xác những người này bị chôn ở một khu ruộng gần
đó. Một tài liệu tiết lộ vào năm 2011, còn cho biết rằng người ta tìm thấy các
móng tay của người vợ ông Krainick bị gãy và đầy đất cát, có nghĩa bà đã bị
chôn sống và tuyệt vọng tìm cách thoát ra. Hai linh mục người Pháp là Urban và
Guy cũng không tránh khỏi thảm nạn: ông Urban thì bị trói và chôn sống. Còn ông
Guy thì may mắn hơn với một viên đạn vào sau gáy.
Khi ông Dũng đang trốn trong cái hố của mình, được phủ đầy
lá cây lên trên, vô tình ông nghe được người nhà nói với nhau rằng vợ của ông
đang vào bệnh viện do đau đẻ sớm. Sốt ruột, ông Dũng tìm cách lẻn đến bệnh viện
để nhìn vợ và con, nhưng khi vừa ra khỏi cổng bệnh viện, ông đã bị một nhóm người
ập đến giải đi.
Mùng 13, khi có ai đó nói rằng ông Dũng đã bị bắn, xác chôn ở
một khu ruộng gần nhà, mẹ ông Dũng cùng gia đình chạy đến để đào, tìm xác.
Nhưng đó là một khu ruộng lớn, chỉ nhìn thôi cũng có cảm giác kiệt sức. Điều kỳ
diệu đã xảy ra khi mọi người đã hoàn toàn tuyệt vọng. Mẹ của ông Dũng đã tung đồng
xu lên, cầu nguyện rằng nếu ông chết và bị vùi thây nơi đây, hãy để đồng xu rơi
xuống nơi đó. Khi mọi người đến nơi đồng xu rơi, đào lên, thì thấy ông nằm dưới
xác một người đồng sự của ông. Cả hai đã chết, không biết là bị bắn hay bị chôn
sống. Và cũng vì vậy, đám giỗ của ông Dũng hàng năm được tổ chức vào mùng 13 Tết,
một ngày vu vơ tạm bợ nào đó, nhưng hàng ngàn gia đình ở Huế đã cắn răng chọn
cho người thân của mình, sau vụ thảm sát.
Tôi ngồi nghe câu chuyện của ông Dũng, từ một người thân của
ông. Đó là một người đàn ông năm nay đã gần 70 tuổi. Giọng kể chậm rãi, trầm trầm,
giống như câu chuyện đọc trước giờ đi ngủ cho trẻ con. Chỉ khác rằng nó sẽ khiến
bạn đi vào những cơn ác mộng không bao giờ chấm dứt, vì đó là sự man rợ mà những
người Việt đã hành động trên quê hương mình, nhân danh những nấc thang lên
thiên đường từ Nga Sô hay Trung Cộng.
Mỗi năm, Tết về, tôi vẫn có thói quen hay tìm hỏi những người
đã sống, đã biết, đã chứng kiến thảm sát Mậu Thân, như một cách mặc niệm cho số
phận người Việt Nam bị chà đạp bởi hận thù và những lý tưởng xa vời với tình
yêu quê hương và dân tộc. Tôi để avatar của mình trên Facebook không màu, như một
cách để tang cho những con người đã vô vọng trước họng súng và sự điên cuồng của
đồng loại cùng màu da, tiếng nói. Đơn giản vì tôi thương dân tộc mình, và tôi
yêu sự thật.
Trịnh Công Sơn đã viết trong tạp Ca khúc Da vàng “Xác người
nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh
co”. Không có gì mô tả chân thực như bài
hát đó. Lịch sử Việt Nam hôm nay cũng bị
bẻ quanh co, quanh những xác người vô tội như vậy, bởi những người cầm quyền.
Suốt nhiều năm, những người cộng sản miền Bắc vẫn vỗ tay và gọi đó là một chiến
thắng oanh liệt, còn một trong những trí thức nổi tiếng đi trong vũng máu thảm
sát 1968 đó, thì nói một cách kiêu hãnh trên loạt phim tài liệu Vietnam: A
History của Stanley Karnow rằng “cần thì cũng phải giết, vì đó là những
con rắn độc”. Nhưng không có đạo lý nào công nhận loại chiến thắng chấp nhận dẫm
đạp lên sinh mạng của nhân dân mình. Đó chỉ là một tên gọi khác của thứ tội ác
ghê tởm.
Những mùa xuân thật buồn từ đó. Khi tôi đến Huế. Tôi lần bước
đến sân vận động, ra trường Gia Hội cũ… và nghĩ về những ngày không bao giờ cũ.
Mãi mãi không bao giờ cũ. Nếu người cầm quyền có lòng tự trọng và nhân cách, họ
sẽ ghi chép sự thật và được mai sau nhìn nhận. Còn nếu không, chính nhân dân sẽ
chép lại, lưu truyền ngàn đời bằng tất cả lòng khinh khi và oán hận.
No comments:
Post a Comment
Note: Only a member of this blog may post a comment.