Wednesday, May 31, 2023

Lộ Diêu: Dân chọn hay chính quyền đã chọn?

 

Câu chuyện bãi biển Lộ Diêu đẹp mê hồn ở xã Hoài Mỹ, thị xã Hoài Nhơn, Bình Định, nay mai rồi sẽ bị san, dời để làm chỗ cho nhà máy luyện gang thép đồ sộ Long Sơn, đang khiến khắp nơi người dân Việt ai nấy biết đến đều nhói lòng. Cái tên Lộ Diêu bắt đầu ngày càng được nhắc đến nhiều hơn, được tò mò bàn tán về địa danh và thắng cảnh đẹp nguyên sơ: bởi lâu nay biển Lộ Diêu chưa được chính quyền dùng đến, quảng bá như một địa danh du lịch đặc biệt của Bình Định.

Vùng biển nhỏ, hẻo lánh ở Bình Định có thể không tạo nhiều ấn tượng trên các dòng tin, về một đổi thay sống còn của thiên nhiên Việt Nam, và cả vận mệnh của hàng trăm con người đã chia nhau sống và gìn giữ từ hàng trăm năm trước. Thế nhưng, chỉ cần ví von, nếu đặt một nhà máy thép ở Đà Lạt hay Sapa, ắt mọi người sẽ hình dung của sức nặng ham muốn làm kinh tế, để đánh đổi cả quá khứ và tương lai của một địa danh là như thế nào.

Trước đây, Dự án nhà máy gang thép Long Sơn định đặt ở huyện Phù Mỹ, nhưng rồi lại đổi ý, chọn Lộ Diêu. Trong công văn của nhà đầu tư gửi tỉnh Bình Định, số 1219-1/LSPM-KHTT, điểm quan trọng nhất được nêu trong báo cáo là do Lộ Diêu địa hình đất gần núi, khối lượng san và lấp không nhiều phí tổn, so với Phù Mỹ. Bên cạnh đó còn nhiều thuận lợi chuẩn, hướng ra biển. Nói trắng ra, có nghĩa là nếu dựng ở Phù Mỹ thì tốn kém cho nhà đầu tư, hơn là ở Lộ Diêu.


Ngôn luận của nhà đầu tư, đem lại một sự lo sợ ngấm ngầm cho bất cứ ai có suy nghĩ nhạy cảm, đồng nghĩa là bất cứ bờ biển nào có lưng là núi, mặt là biển, đều là cơ hội cho các nhà máy thép. Trong đại lộ chen nhau chạy về phía trước để làm ra tiền của ở Việt Nam lúc này, bất chấp các dự báo và ưu tiên dân sinh, dường như mọi thứ đều đang nằm trong tầm ngắm của các nhóm đại tư bản tầm thu hoạch nhiệm kỳ.

Nhưng đáng sợ, là sự ủng hộ tha thiết đến khó tin của những người lãnh đạo tỉnh Bình Định, được nhìn thấy đến mức như đem tính mạng của mình ra đặt cược, dù trong ngôn luận bảo đảm của các quan chức, không có gì thuộc luận cứ khoa học được giới thiệu.

Trước đây vài tháng, cái tên Hồ Quốc Dũng là một cái tên xa lạ, hầu như với cả nước chẳng ai biết. Chỉ đến khi câu chuyện dự án lập một nhà máy thép khổng lồ ở thôn Lộ Diêu, xã Hoài Mỹ, thị xã Hoài Nhơn trở nên ồn ào, và ồn ào hơn nữa với các tuyên bố “bán mạng” của ông, thì mới rõ: Hồ Quốc Dũng, bí thư tỉnh ủy Bình Định.    

 

Câu nói của ông Hồ Quốc Dũng chắc nịch, tuyên bố rằng sẽ không thể có ô nhiễm. “Người dân Lộ Diêu cứ yên tâm. Vì nhà máy thép có công nghệ tuần hoàn, nước thải không xả trực tiếp ra môi trường biển và có hệ thống lọc, khói bụi”. Dĩ nhiên, là ông nói, chứ không hề là nhà đầu tư ra mặt nói. Nhưng cũng không có gì bảo đảm cho những ngôn luận đó, bởi ông Dũng chưa từng có trong tay một báo cáo thẩm định an toàn, nghiên cứu khoa học về tác động môi trường nào của nhà máy thép đó được đưa ra trước công luận và đưa ra cho các nhà khoa học mọi nơi góp ý.  

Trong công văn trình cho Sở Kế hoạch Đầu tư Bình Định, nhà đầu tư liệt trong mục 7, mười điểm liệt kê bảo vệ môi trường cũng chỉ là dự đoán, vì mọi thứ không có chi tiết hoạt động, công suất cụ thể, nguồn thải và cũng không có ai kiểm tra văn bản đó là bao nhiêu phần trăm xác thực. "Nếu sau này nhà máy thép có m3 nước thải nào đổ ra biển, tôi sẽ chịu trách nhiệm. Dự án sẽ bị dừng khi ảnh hưởng môi trường", ông Hồ Quốc Dũng nói và cho biết khói bụi của nhà máy cũng được thu gom để phục vụ cho lĩnh vực khác – tuy nhiên, ông không cho biết lĩnh vực khác, là lĩnh vực nào cần đến khói bụi. Mọi cam kết chắc nịch của ông, cũng mông lung như trong văn bản của nhà đầu tư.

Trong các tuyên bố với báo chí, ông Hồ Quốc Dũng liên tục nói “Tôi chịu trách nhiệm nếu nhà máy thép xả thải ra biển”. Thật khó đoán, ông Dũng sẽ tự mình chịu trách nhiệm như thế nào với một dự án quy mô đến hơn 53 ngàn tỷ đồng mà chắc chắn sẽ không có sai sót? Trong các câu chuyện người xưa để lại, các vị quan liêm chính khi quyết chọn thi hành một phương sách, đã nhận đổi cả tính mạng của mình nếu thất bại. Ông Hồ Quốc Dũng liệu có đem tính mạng của mình đặt ra vào lúc đó?

Dì Hương, một người dân Lộ Diêu phát biểu

 Các vị quan chức tỉnh Bình tuyên bố là nếu lòng dân không thuận, sẽ không làm. Thế nhưng buổi giáp mặt với những người dân Lộ Diêu, vào sáng 30 Tháng Năm 2023, chính quyền đã không tìm được bất kỳ một lời ủng hộ nào. Nhưng thay vì đó là ý kiến cuối, chính quyền lại nói sẽ tìm cách thuyết phục thêm người dân. Rõ là sự đồng thuận của các quan chức trong phòng riêng với nhà đầu tư đã mang tính quyết định hơn cả. Cũng từ đó, ai quan sát câu chuyện Lộ Diêu cũng cảm thấy ngạc nhiên: Điều gì đến mức khiến ông Bí thư Tỉnh ủy Hồ Quốc Dũng cả quyết đứng che cho cả nhà đầu tư, tuyên bố bảo đảm, thể hiện khát vọng muốn làm bằng được việc cho phép nhà máy thép hoạt động?

Trong buổi gặp mặt lấy ý kiến dân sáng 30 Tháng Năm, một bà cụ được dân trong thôn Lộ Diêu, gọi là Dì Hương, đã phát biểu đanh thép “Tôi muốn hỏi là hiện có một đảng Cộng Sản hay hai đảng, đảng nào trước kia nói dân Lộ Diêu phải giữ đất giữ làng, một tấc không đi một ly không rời. Giờ đây đảng nào lấy đất của dân Lộ Diêu giao cho doanh nghiệp tư nhân làm dự án mà không thông qua người dân? ". Câu hỏi này không được chính quyền tỉnh Bình Định trả lời, nhưng chìm trong tiếng vỗ tay tán thưởng rầm rộ cả khu thảo luận. Điều đáng nói, trong lúc Dì Hương nói những lời minh bạch vậy, micro của Dì đột nhiên lúc có lúc không, một cách dễ hiểu.

 

Chú Minh, một người dân Lộ Diêu quyết không di dời

Một nguời khác, được giới thiệu là chú Minh, khẳng định: “Chúng tôi không thể rời đi. Đó là ý kiến của tôi và có khi là ý kiến của một số bà con chung quanh đây, có phải không?”, ông quay lại hỏi trong tiếng vỗ tay và lại tán thưởng rầm rộ.

Tỉnh Bình Định đã nghe, đã biết, vậy nay vẫn còn muốn tổ chức thuyết phục người dân “chọn thép hay chọn cá” đến như thế nào nữa đây?

Monday, May 29, 2023

Miền Nam trước 1975 có là “phồn vinh giả tạo”?

 

Một cửa hàng bán truyền hình ở Sài Gòn, trước năm 1975

Sau năm 1975, một trong những cách mô tả của báo chí nhà nước mới về sự thịnh vượng của miền Nam là một xã hội "phồn vinh giả tạo". Cách dẫn giải của cụm từ này, đơn giản là do đô-la của đế quốc Mỹ đổ vào, sự ăn xài phủ phê có tính giai đoạn, quan chức tham nhũng giàu có, bọn tư bản mua bán lũng đoạn... nên xã hội miền Nam Việt Nam có vẻ đầy sức sống nhưng trong lòng của xã hội là sự nghèo kém và lạc hậu vì bị áp bức, bóc lột. 

Những quan điểm như vậy, dù thiếu tính nghiên cứu khoa học và được dẫn đường bằng cái nhìn đay nghiến vô cớ, cũng khiến không ít người tin vào điều này, thậm chí là căn bản lý luận của những luận văn gọi là khảo sát miền Nam hoặc báo chí trong suốt trong một thời gian dài.

Cho đến khi ngôn luận đời sống xã hội được mở rộng, đặc biệt là sau khi các mạng xã hội, blog… phát triển, luận điệu này chìm dần, nhưng không có ai nói lại, xin lỗi hoặc có một sự tự trọng nhất định để cải chính về đời sống thật của người dân miền Nam, nếu không nói đó là loại ngôn luận phủ định đầy xúc phạm.

Mới đây, trong một bài viết của nhà báo Trương Huy San, có nói về thời kỳ phát triển viễn thông sau 1975 với một số quan chức có ý thức về tương lai đất nước, bài viết có dẫn con số về đầu điện thoại sử dụng ở hai miền trước 1975. Theo bài viết, con số thống kê được chính quyền mới ghi nhận lại, cho thấy trong thập niên 1960, điện thoại tư nhân đã tăng rất nhanh ở miền Nam: Năm1965, 23.377; năm 1966, 24.837; năm 1967, 27.082; năm 1968, 30.964; năm 1969, 36.150; năm 1970, 34.889; năm 1971; 38.133 máy.

Những con số này cho thấy sự phổ biến trong đời sống dân sự Việt Nam. Đồng thời gian, các tài liệu về lịch sử viễn thông – phương tiện điện thoại cố định ở Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba,Thái Lan… cho thấy điện thoại cố định (landline telephone) là hầu như chỉ dành cho các văn phòng công sở, không phổ biến cho dân dụng. Dĩ nhiên, miền Bắc thì lại càng không có, do mọi nguồn lực đều tập trung phục vụ cho chiến tranh chứ không là phát triển truyền thông đại chúng. Bên cạnh, việc quản lý nghiêm ngặt các phương tiện liên lạc này vì sợ gián điệp, cảnh giác… khiến điện thoại chỉ có ở các cơ quan, nhưng không đều.

Trong bài viết, nhà báo Trương Huy San lập lại vài chi tiết mà nhiều người miền Nam đã biết, là “ngày 30 tháng Một 1966, lần đầu tiên người dân Sài Gòn được xem một bộ phim Mỹ, vừa có tiếng Việt vừa có tiếng Anh, qua 1.000 máy vô tuyến truyền hình được đặt ở những địa điểm đông người tại Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Tín hiệu được phát đi từ hai máy bay hiệu Constellation bay vòng quanh Sài Gòn. Hôm sau, ngày 31 tháng Một 1966, Tháp vô tuyến truyền hình đã được khánh thành tại số 7 đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai). Cuối thập niên 1960, máy vô tuyến truyền hình trở thành phổ biến ở các đô thị lớn và bắt đầu về tới các vùng nông thôn miền Nam.

Ngày 7 Tháng Chín 1970, miền Bắc mới cho phát thử một chương trình truyền hình đen trắng và phải sau ngày 30 tháng Tư 1975, một số người dân ở Hà Nội, mới được “xem vô tuyến” nhờ các máy thu hình đưa từ miền Nam ra chuyển hệ hoặc đưa từ Liên Xô và các nước Đông Âu. Truyền thông báo chí, ngay cả của nhà nước cũng phát triển rất hạn chế ở miền Bắc. Trong thập niên 1960, trong một xã may ra có ông chủ tịch hay bí thư là có được chiếc máy thu thanh hiệu Xiong Mao hoặc Orionton. Sau năm 1975, những chiếc radio bán dẫn Nhật như Standard, National... được các anh bộ đội, các cán bộ vào Nam công tác đưa ra nhưng nó vẫn là một mặt hàng bị “nhà nước quản lý”.

Trong ký ức nhạt nhòa, tôi vẫn còn nhớ những buổi chiều chủ nhật đón xem các bộ phim cao bồi và siêu nhân trên truyền hình ở Sài Gòn. Bọn trẻ con vẫn hò hét và tán chuyện với nhau về những tình tiết hấp dẫn trên TV. Truyền hình là phương tiện giải trí mắc tiền và riêng tư nhiều hơn cả điện thoại gia đình, nhưng theo một bài viết của nhà báo Phạm Công Luận, thì lúc đó, “Máy truyền hình đã xuất hiện tại VN, lần đầu tiên, năm 1966. Một chiếc Denon, 12 inches, giá 16.500 đồng, 19 inches: 30.000 đồng... Mặc dù kỹ thuật còn lỉnh kỉnh, như: vô tuyến truyền hình, chương trình cao su, hát nói nhiều hơn hình ảnh, ti vi - một danh từ mới - đã được “khán thính giả” VN chiếu cố kỹ. Nhà nhà đều có ti vi. Ai không có thì đi coi cọp. Ăng ten mọc như mắc cưởi, hướng loạn trên các mái nhà, nhất là ở các tỉnh. Chương trình được hâm mộ nhất là... cải lương và... đài Mỹ. Batman xuất hiện khắp hang cùng ngõ hẻm. Lúc đó điện còn yếu, mỗi nhà một survolteur cho ti vi”. Một thống kê khác, cho thấy lúc đó sức mua của người dân miền Nam rất mạnh, nên cho đến đầu thập niên 70, cứ 50 người thì có một gia đình sở hữu truyền hình.

Năm 1980 chính quyền mới thử nghiệm phát truyền hình màu lần đầu, cố gắng nối kết giữa các hệ phát hình xã hội chủ nghĩa và tư bản như NTSC, Secam, Pal… Năm 1983, ông thầy của tôi làm việc ở Sài Gòn, gom góp tiền bạc mua được chiếc tivi màu 14 inch JVC vỏ đỏ. Ông kể chuyện mình dành dụm mãi mới mua với giá gần 1, 4 lạng vàng. Mua xong, ông gửi về quê ở Hà Nội để cho ông cụ thân sinh xem giải trí, vốn cả đời chưa thấy truyền hình màu là gì. Thế nhưng chỉ qua tháng sau, ông nhận lại chiếc truyền hình ấy với thùng, bao còn mới tinh. Hỏi ra mới biết, khi ông cụ nhận được quà không bao lâu, thì xóm làng biết chuyện. Phía hội, đoàn, cả công an khu vực cũng ghé nhà, thuyết phục cụ mỗi đêm nối dây mang ra sân cho cả xóm mấy mươi người cùng xem vì tình nghĩa xóm làng. Đột nhiên từ chỗ có của, nhưng không được vui hưởng, mà trở thành người hàng đêm phải quét sân, dọn tivi ra, rồi hết giờ lại dọn vào… quá mệt mỏi nên ông cụ gửi trả tivi về Sài Gòn, nói rằng ông chỉ muốn được yên.

Về điện thoại cố định, từ giữa những năm 80, khi liên lạc viễn thông không còn bị nhìn với ánh mắt  nghi kỵ, và nằm trong kế hoạch phát triển 1995-2000, với mục tiêu 100 người dân/1 điện thoại, người Sài Gòn dù trải qua nhiều đợt vô cùng khốn khó, đã dẫn đầu cả nước để đóng tiền “cọc”, đưa điện thoại cố định về nhà. Cần phải nói, mỗi điện thoại lúc đó bị yêu cầu thế chân 4 đến 5 triệu đồng, tương đương 4-5 cây vàng (năm 2005, giá vàng là 955.000 đồng/chỉ), nhưng đến giờ, hầu như không ai lấy lại được số tiền thế chân đó.

Chắc là Sài Gòn không chỉ là “phồn vinh giả tạo” đâu, vì sau năm 1980, ở các chợ điện tử của quận 5, quận 1, quận 10… mọc lên như nấm các cửa hàng chuyển hệ truyền hình của phương Tây, sang các hệ màu xã hội chủ nghĩa đang phát. Sự phát triển của các cửa hàng này cũng chứng minh một điều là các phương tiện bị gọi là xa xỉ vào lúc đó, đều là tài sản có sẵn của nhiều gia đình miền Nam, còn lại sau các chiến dịch đánh tư sản X1, X2, X3 mà khiến bộ mặt xã hội trở nên mệt mỏi và kiệt quệ… Cái cách sống và chọn tiện nghi cho mình, đắt tiền nhưng vẫn chấp nhận sau giai đoạn chiến tranh kết thúc, rõ là một xã hội đã quen với nhu cầu và mức sống như vậy. “Phồn vinh giả tạo” quả là không có ý nghĩa gì, khi ít phút nhìn lại lịch sử bằng sự thật.

 

 

Wednesday, May 24, 2023

Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ: Hành trình mang Chánh Niệm vào học đường

 


Bạch Xuân Phẻ bắt đầu đem chánh niệm (mindfulness) vào ứng dụng với các học sinh của mình từ năm 2014. Đó là những tháng năm mà tình trạng bạo lực học đường, trầm cảm, tự kỷ, bế tắc giao tiếp… đột ngột trở thành một vấn nạn được nhìn thấy khắp nơi trên nước Mỹ.

Một nghiên cứu của National Institute of Mental Health từ năm 2007 đã báo động về một căn bệnh tinh thần không có thuốc chữa: nạn trầm cảm lo âu với gần 32% số người được thăm dò đều có triệu chứng, trong đó có đến hơn 90% là thiếu niên từ 13 đến 18 tuổi. Cho tới năm 2020, tài liệu hướng dẫn đối phó tình trạng thương tổn tinh thần của thanh thiếu niên Protect Youth Mental Health, ghi nhận từ năm 2009 đến năm 2019, tỷ lệ học sinh trung học có cảm giác buồn bã hoặc tuyệt vọng dai dẳng, thậm chí tìm đến cái chết, tăng đột ngột đến 40%.

Tiến sĩ (TS) Bạch Xuân Phẻ là một giáo viên dạy hóa học tại Trường Trung học Mira Loma, California. Việc tiếp xúc hàng ngày với các học sinh cho Phẻ một nhận thức rõ là căn nguyên của các tình huống bất thường của học đường và gia đình, thường đều xuất phát từ tinh thần bất ổn ngấm ngầm, sự không kiểm soát được ý niệm sống của các thế hệ trẻ, vốn đã quen với đời sống ít tĩnh lặng và suy niệm.

Từ việc tạo các bài học giúp kiểm soát được tinh thần, kiểm soát được sự tĩnh lặng trong suy nghĩ, Phẻ đã giúp hàng ngàn thiếu niên đi qua những giờ phút tăm tối và cô đơn của chúng, dựng lên sự tự tin và thấu cảm với thế giới sống chung quanh. Đặc biệt trải qua những năm tháng gay go nhất của đại dịch 2020, thư và cảm nhận về lợi ích của bộ môn thực hành chánh niệm đã gửi về cho Phẻ không ngớt: Chánh niệm thật sự là một liệu pháp.

Đến Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ được trao giải Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).

Lời vinh danh TS Bạch Xuân Phẻ, được Hiệp Hội Giáo Viên California phát đi, là “Điều làm nên sự khác biệt của TS Phẻ X Bạch với tư cách là một nhà giáo dục — cụ thể là giáo viên hóa học tại Học khu San Juan từ năm 2002 — là khả năng và sự sẵn lòng của ông để giúp thấm nhuần chánh niệm vào phương pháp giảng dạy của mình, và tạo ra các chương trình liên đới với chánh niệm để mang lại lợi ích cho học sinh của mình, đồng nghiệp và cả cộng đồng AAPI (Asian American and Pacific Islanders).

TS Bạch Xuân Phẻ bắt đầu các lớp học của mình mỗi ngày với 5 phút thiền định — mà ông gọi là một “kỳ nghỉ cho tâm trí của bạn” — và thảo luận về hiệu quả của kỳ nghỉ đó, trước khi bắt tay vào công việc học tập. Phẻ chỉ ra các nghiên cứu cho thấy chánh niệm là chìa khóa thành công của nhiều học sinh ở trường. Phẻ cũng là người khởi xướng và phát triển việc thực hành chánh niệm ngoài lớp học, đồng thời anh ấy đã thành lập một số tổ chức dạy chánh niệm cho các cộng đồng AAPI khác nhau.

Đại dịch và các sự kiện bất ổn của xã hội gần đây đã nhấn mạnh sự cần thiết của chánh niệm như một phần cơ bản của giá trị giáo dục. Mục tiêu của TS Phẻ là giúp các nhà giáo dục trở thành những giáo viên khỏe mạnh hơn và giỏi hơn, từ đó mang lại lợi ích cho học sinh của họ.

Phẻ đưa ra triết lý giáo dục rằng các nhà giáo dục cần có một sức khỏe tinh thần – như một thành phần quan trọng để giảng dạy hiệu quả và tạo được môi trường học đường tích cực. Câu thần chú của TS Bạch Xuân Phẻ dành cho những người tham gia các lớp học của mình là “Bạn không thể cho đi thứ mà bạn không có”. Có nghĩa người giảng dạy sẽ không mang lại được sự lành mạnh trong tinh thần với học sinh của mình, nếu chính bản thân họ cũng là những con bệnh.

Những cuộc thực hành đầu tiên về chánh niệm được Bạch Xuân Phẻ áp dụng cho một vài lớp, mời gọi sự tự nguyện. Mọi thứ được giải thích dựa trên căn bản về chánh niệm mà Phẻ đã từng tối giản để bất kỳ ai cũng có thế tiếp nhận, dù khác biệt văn hóa và nơi chốn.

Không phải học sinh nào cũng hiểu được chuyện hít và thở chầm chậm, buông lỏng… sẽ đem lại điều gì cho thế giới quan của giới trẻ vốn quen sống thiên về hiệu quả cụ thể. “Những thứ này đem lại điều gì?”, những đứa trẻ học sinh hỏi và ngạc nhiên tiếp nhận.

Tại Mira Loma, Bạch Xuân Phẻ có các khóa học tự chọn nhằm giúp học sinh thực hành chánh niệm. Trên các bức tường trong lớp học của ông được trang trí bằng những tấm áp phích do chính các học sinh làm, bày tỏ sự nhận thức về chánh niệm của chúng.

Một trong những tấm tranh tường, được chính học sinh định nghĩa về chánh niệm, không khác gì như một hướng dẫn chuyên nghiệp “chánh niệm là trạng thái nhận thức không phán xét về những gì đang xảy ra trong thời điểm hiện tại bao gồm nhận thức về suy nghĩ, cảm xúc và giác quan của chính mình”.

Chương trình chánh niệm của Phẻ tạo được tiếng vang nhờ sự kiên trì tranh đấu của ông đối với nhận thức về sức khỏe tinh thần. “Trong sự nghiệp giảng dạy của mình, tôi đã mất sáu học sinh vì tự tử rồi và tôi không muốn mất thêm em nào nữa,” TS. Bạch chia sẻ.

Ông nói thêm “hy vọng rằng với tinh thần đó, lớp học này sẽ giúp một số em có được bộ kỹ năng cần thiết để vượt qua những cảm xúc nhất thời, và mạnh mẽ hơn”. Nói khi nhận giải thưởng Human Right Awards 2023, Phẻ bày tỏ rằng “Tất cả hòa bình trên thế giới đều bắt đầu từ sự bình an nội tâm, vì vậy [tôi mong] họ nuôi dưỡng sự bình an nội tâm đó – cùng nhận thức, sự hiểu biết và lòng trắc ẩn”.

Giải thưởng này là đòn bẩy để TS Bạch Xuân Phẻ mở rộng các câu lạc bộ sinh hoạt chánh niệm trong giới học sinh thiếu niên, và thậm chí có thể vận động xin ngân sách như một chương trình hoạt động thiết yếu của hệ thống trường học.

TS Bạch Xuân Phẻ đã xuất bản một cuốn sách song ngữ về chánh niệm, với pháp danh Phật giáo của mình là Tâm Thường Định cùng Tâm Nhuận Phúc, mang tên Việt là “Chánh niệm – Chất liệu tỉnh giác trong cuộc sống và học đường”. Sách được Amazon phát hành với cả hai phiên bản Anh và Việt.

Giới thiệu về cuốn sách này, hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, trong lời mở đầu đã dẫn giải rằng “Một người, do bất cẩn, gây ra tai nạn chết người. Người ta nói, người ấy hành động vô ý thức. Mỗi năm có vô số hành động vô ý thức gây tai nạn chết người như vậy trên khắp thế giới. Đó là chưa nói đến những tai hại nhỏ mà hầu như nhiều người trong chúng gây ra cho chính mình và cũng gây ra cho những người chung quanh mình không ít trong sinh hoạt thường nhật vì những hành động được nói là vô ý thức ấy”.

“Cho nên, khi chúng ta nói, những hành động bất cẩn, hay những hành động vô ý thức, đấy là muốn nói đến nhận thức bị tác động bởi xúc cảm nguy hại khiến kích hoạt các chức năng tâm lý thất niệm, tán loạn, bất chánh tri”. (trích)

Dụng cụ giảng dạy chính trong các buổi thực hành chánh niệm của Phẻ, là chiếc chuông nhỏ có tiếng kêu như gió thoảng. Phẻ đánh một tiếng chuông để mở đầu cho một lần hít thở, im lặng tĩnh tại trong tâm trí cúa người tham gia, và một tiếng chuông để đánh thức mọi người sau một chu kỳ.

Từ những đứa trẻ từng đặt câu hỏi “cái này để làm gì”, chúng đã hồi đáp liên tục bằng những tin nhắn, thư và tâm tình trực tiếp. Chẳng hạn như một em học sinh đi qua được một cuộc đối đầu hung hãn, đã viết cho TS Phẻ: “Hôm nọ, em bị một nhóm con gái đẩy vào bụi rậm. Mặc dù hết sức tức giận đến điên người nhưng em nhớ lại lời dạy của thầy, nên đã dừng lại được”.

Hoặc mới nhất với TS Phẻ, từ một nữ học sinh tốt nghiệp, rời khỏi nhà trường: “Nhớ lại khi dịch COVID đã bắt đầu. Em đã rất căng thẳng nhưng thật may mắn khi em có được một người thầy hiểu biết. Thầy luôn luôn rất tử tế và rộng lòng. Thời gian thiền định của thầy đầu giờ học luôn giúp em bình tĩnh và dạy em kiểm soát căng thẳng tốt hơn, điều đó là vô giá trong thời kỳ đại dịch… Em nghĩ rằng đó là một phẩm chất thật đẹp của thầy, em ước rằng có thể lại tham gia lớp học thiền của thầy. Lớp học truyền cảm hứng cho em, với cách thầy nói chuyện để làm sao chúng ta có được sự hạnh phúc. Em sẽ không bao giờ quên…”. Thư được em nữ sinh gửi đi vào Tháng Năm 2023.



50 năm "vương quốc nail" của người Việt

Năm 1984, Thảo lên chuyến tàu vượt biển để đi khỏi Việt Nam. Cô chưa biết mình đến được đâu, nhưng cô phải đi vì lẽ sống. Dì của cô đang ở Mỹ nói rằng hãy cố vượt thoát và dì sẽ đợi, bảo lãnh cho cô. Năm đó Thảo chỉ mới 24 tuổi. Cô không có bằng đại học như những người trẻ tuổi bình thường khác trên thế giới, bởi gia đình cô bị xem là công dân loại hai, cha của cô đang ở trong trại cải tạo, mẹ cô tập buôn bán và xoay sở khó khăn để nuôi gia đình. Tự do là một lẽ, nhưng cô sẽ làm gì sống trên vùng đất mới xa lạ nếu đến được? Đó là câu hỏi mà Thảo cứ dằn vặt lo âu, mơ về một cuộc sống khác.

Một năm sau, khi Thảo đến được đất Mỹ, người dì đón cô và gặp ngay câu hỏi treo lơ lửng trong đầu cô suốt từ đó đến giờ. “Con có thể làm nghề gì đển kiếm tiền vậy dì?”. Kiếm tiền là một mệnh lệnh: Để tồn tại ở một quê hương thứ hai, gửi về cho gia đình, chia sẻ khó khăn với mẹ và em, trợ giúp cho cha đang bị giam cầm không biết khi nào mới về được. Nói nhanh và dứt khoát, dì của Thảo nói “làm nail”.

Cái nghề hết sức mới mẻ với người Việt Nam, đã khởi sự từ năm 1975 ở California. Không chỉ Thảo mà hàng ngàn, hàng chục ngàn người Việt đã đến và làm nghề để nuôi sống mình, nuôi sống gia đình ở Mỹ và ở cả Việt Nam. Trước khi người Việt Nam đến và dần chiếm lĩnh ngành công nghiệp làm đẹp trị giá ước tính đến $8 tỷ; người Mỹ, người Hoa và người Đại Hàn cùng chia nhau thị phần này. Thế nhưng cuộc lật đổ diễn ra trong hai thập niên. Đến 1995, người ta nhìn thấy các salon làm nail, cung cấp các thiết bị cho ngành nail, nhân lực lành nghề… đều do người Việt chiếm giữ.

Khác với các ngành nghề khác của người Việt, luôn có ngày để tưởng niệm tổ nghề. Thế nhưng “tổ” nghề nail lại là một người còn sống và vẫn ghi nhớ câu chuyện kỳ lạ và xúc động này. Đó là nữ diễn viên người Mỹ Tippi Hedren, người mẫu và người tranh đấu bảo vệ động vật. Khi bài viết này (năm 2023) đến với người đọc, bà đã vào tuổi 93. Ngoài việc bất ngờ trở thành “tổ” nghề nail của người Việt tỵ nạn Hoa Kỳ, Tippi Hedren còn được biết đến là người đã hết lòng vận động để đưa nữ diễn viên Kiều Chinh sang Mỹ khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, và cưu mang một thời gian.

Câu chuyện bắt đầu từ những người phụ nữ Việt Nam mệt mỏi chạy từ quê nhà đến trại tỵ nạn ở Sacramento từ những ngày cuối Tháng Tư 1975. Hầu hết đều là vợ con của các sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Trước giờ, họ chỉ làm việc nội trợ, buôn bán… chứ ít khi bước vào làm việc tay chân. Hơn nữa, để bắt đầu kiếm sống và đòi hỏi phải lưu loát ngôn ngữ địa phương, đối với họ quả là đầy cam go.

Là một người hoạt động xã hội, và là thành viên của phong trào thiện nguyện Food for the Hungry, bà Tippi Hedren đã ghé qua trại và được yêu cầu là tìm hiểu gấp tình hình, tìm cách giúp hướng dẫn học nghề và tìm việc cho những phụ nữ Việt Nam đang lo âu. Trong một thiên phóng sự của đài BBC, bà Tippi Hedren kể rằng đi một vòng, bà nghĩ rằng những nghề học ngắn hạn, và có vẻ phù hợp với những người Châu Á là may vá và đánh máy văn phòng. Cuộc thử nghiệm bắt đầu. Hóa ra những thứ như may thì đòi hỏi phải giỏi mới có thể kiếm sống, còn gõ chữ thì lại đòi hỏi phải biết tiếng Anh, nhất là trong các trường hợp nghe băng ghi âm để đánh máy ra văn bản.

Trong lúc đi xem các mẫu may và văn bản của những người phụ nữ Việt Nam, lòng đang hụt hẫng, thì bà Tippi Hedren lại thấy nhiều người cứ chăm chú nhìn vào đôi bàn tay đã sơn giũa kỹ lưỡng của bà. “Móng tay bà làm đẹp quá, tụi tôi ít khi thấy được như vậy”, một người phụ nữ Việt Nam nói.

Lúc đó, trong đầu bà Hedren bừng sáng, bà nghĩ đến chuyện họ yêu thích cái gì đó, thì có thể sẽ chú tâm và làm giỏi. Lập tức bà Tippi Hedren thay đổi lựa chọn. Bà giao cho một trường thẩm mỹ địa phương đến, để giúp dạy nghề nail cho phụ nữ. Lúc đó, trại tỵ nạn có tên là Hope Village – Làng Hy Vọng, nằm ở Bắc California gần Sacramento. Khi những phụ nữ Việt Nam tốt nghiệp học phần làm nail, Hedren đã giúp họ kiếm việc làm tận cả miền Nam California.

“Tôi thương những người phụ nữ này nhiều đến mức tôi muốn điều gì đó tốt đẹp cho họ, nhất là sau khi họ mất tất cả mọi thứ, theo đúng nghĩa đen”, bà Tippi Hedren nói trong chương trình tài liệu của BBC. Qua những thước phim, người ta nhìn thấy bà vui và hãnh diện về điều mà mình làm được đến mức dựng một bảo tàng nhỏ, bên cạnh nhà mình. Bảo tàng bao gồm những kỷ vật của Hollywood, những  bức ảnh của những người phụ nữ ở Hope Village, cùng những giải thưởng từ ngành chăm sóc móng tay.

Nói với BBC, bà Tippi Hedren ngậm ngùi “nhiều người trong số họ đã mất cả gia đình và tất cả những gì họ có ở Việt Nam: nhà cửa, công việc, bạn bè của họ – mọi thứ đã biến mất. Họ mất cả quê hương của mình”.

Nhưng bà Tippi Hedren không biết rằng từ sự chia sẻ và yêu thương đó, bà đã góp phần làm thay đổi ngoạn mục ngành công nghiệp làm đẹp – làm nail trị giá hàng tỷ đô la của nước Mỹ. Chỉ với 20 người đầu tiên tốt nghiệp ngành nail, sau đó con số thợ nghề giỏi người Việt đã phát triển khắp nơi, nâng cấp thẩm mỹ và cải tiến quy trình làm đẹp, cũng như khiến giá cả làm nail không còn quá xa vời với những mọi phụ nữ có thu nhập bình thường.

Dù có đôi chút chạnh lòng, nhưng người Mỹ đến trước, lập nghiệp trước cũng buộc phải nhìn nhận rằng người Việt Nam đã mang lại cho ngành kinh doanh tiệm nail một cuộc lột xác hoàn toàn. Vào những năm 1970, việc làm móng tay và móng chân có giá khoảng $50 – đó là cái giá có thể chấp nhận được đối với các ngôi sao Hollywood, nhưng với 80% phụ nữ ở Mỹ (bao gồm mọi sắc dân), đều là ngoài tầm với. Ngày nay, giá cơ bản ở các tiệm Việt Nam chỉ còn khoảng $20, mặt bằng hạ xuống do phần lớn là do các tiệm của người Mỹ gốc Việt tính phí thấp hơn 30-50% so với các tiệm khác, tạp chí NAILS khảo sát và ghi nhận.

Tuy nhiên, việc hạ giá không thể cưỡng lại từ cuối thập niên 1980, khiến các tiệm nail được quản lý từ những người Mỹ đã nảy sinh các cuộc tranh luận, được cả CNN tường thuật. Sự thành công nhanh chóng của những tiệm nail người Việt đã khiến các chủ tiệm da trắng phẫn nộ, những người cảm cho rằng khách hàng của họ đang bị đánh cắp và công việc kinh doanh của họ bị đóng băng.

Liên minh nhiều chủ tiệm nail người Mỹ từng tuyên bố rằng cộng đồng làm nail Việt Nam đang đe dọa sự sống còn của ngành công nghiệp làm đẹp này trên nước Mỹ. Cuộc tấn công thứ hai bắt đầu với những định kiến ​​phân biệt chủng tộc và coi các chủ tiệm nail người Việt là tham lam và không giữ vệ sinh. Nhưng các cuộc canh tranh về giá suốt thập niên 1980 và 1990 về giá và tay nghề, cuối cùng thì người Việt chiếm thế thượng phong.

Một chi tiết khác được đề cập tới, vượt qua nhiều định kiến cạnh tranh của giới làm nail của Hoa Kỳ: Tay nghề người Việt đặc biệt xuất sắc, vượt trội các chủng tộc khác và thậm chí được các chủ tiệm nail người Mỹ da trắng yêu thích. Có vẻ như khi cánh cửa quê hương tự do của họ đóng lại, Thượng đế đã mở ra một cánh cửa khác, riêng cho những con người đi tìm lẽ sống, và tạo cho họ một vận hội khác.

Sau hơn bốn thập niên, kể từ khi Sài Gòn sụp đổ, 51% thợ nail ở Hoa Kỳ – và khoảng 80% ở California – là người gốc Việt. Nhiều người trong số này là hậu duệ trực tiếp từ lớp phụ nữ đầu tiên được truyền cảm hứng nghề làm móng – nail, từ một diễn viên Mỹ tóc vàng, nổi danh với phim Birds của Hitchcock.

“Tất nhiên tôi biết Tippi Hedren là ai! Cô ấy là Mẹ đỡ đầu của ngành làm móng”, Tâm Nguyễn, chủ tịch của Advance Beauty College, do cha mẹ anh thành lập, nói. Câu chuyện lịch sử này không phải tiệm dạy nail nào cũng biết để truyền lại cho những người làm nghề mới. “Mẹ tôi là bạn thân của Thuận Lê, một trong những học trò đầu tiên của Tippi. Chính Thuận đã khuyến khích mẹ tôi tham gia kinh doanh”.

Tâm Nguyễn được sinh ra ngay trước khi Sài Gòn sụp đổ. Ở Việt Nam, cha anh là một sĩ quan quân đội và mẹ anh là thợ làm tóc. Vào những ngày tháng êm đềm của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, cha mẹ của Tâm Nguyễn mong muốn con mình trở thành một bác sĩ, nhưng sau đó khi đến Mỹ, Tâm quyết định  chọn lựa kinh doanh móng tay. “Nó làm tan nát trái tim của mẹ tôi”, anh nói.

Nhưng rồi sự thành công nhanh của nghề làm nail đã khiến mẹ của Tâm Nguyễn nhận ra điều cần phải làm, và ủng hộ việc tiếp quản công việc kinh doanh của gia đình cùng với chị gái của anh. Bây giờ họ điều hành hai trường thẩm mỹ và đang mở một trường khác. Tất cả các khóa học của họ được giảng dạy đồng thời bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Cũng như cô Thảo, khi chân ướt chân ráo đến Mỹ, nhiều người Việt nhận ra rằng họ có thể kiếm sống và có cuộc đời tương đối ổn định từ việc làm nail, cũng như tham gia vào thế giới kiểm soát ngành công nghiệp này với dấu ấn người Việt.

Người này nói với người kia, các cá nhân này bắt đầu lan truyền tin tức về cơ hội này cho những người tỵ nạn Việt Nam khác và mở tiệm làm móng của riêng họ: Đây là nghề bạn chỉ cần khéo tay và nụ cười đón khách, chứ không cần phải giỏi bản ngữ. Chỉ trong một thời gian ngắn, các tiệm làm móng đã trở thành nền tảng cho nền kinh tế của cộng đồng người Việt. Các doanh nhân Việt Nam đã tạo ra một cuộc cách mạng trong ngành bằng cách cung cấp những dịch vụ giảm giá giúp các tiệm nail dễ tiếp cận hơn và do đó được dân chúng biết đến nhiều hơn.

Nhưng nhiều người Mỹ, Đại Hàn… làm trong ngành nail, ít khi biết rằng, đối với người tị nạn Việt Nam, đây là cơ hội nhanh kiếm tiền để gửi về cho gia đình ở Việt Nam, mang lại một nền giáo dục chất lượng và cuộc sống tốt hơn cho con cái họ, đồng thời tồn tại ở nước ngoài. Nhiều năm nay, kiều hối gửi từ cộng đồng làm nail gửi về nước luôn chiếm ở mức 8% (hoặc quy đổi là khoảng $14 tỷ), góp phần quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam.

Nghề làm nail là một giấc mơ Mỹ khác của người Việt. Đối với nhiều bậc cha mẹ Việt Nam, sự thành công của con cái họ là tối quan trọng. Mặc dù nail có thể là một công việc tạm thời tốt và hấp dẫn, nhưng đó là cứu cánh cho rất nhiều gia đình để bảo đảm cho việc con cái được học hành cao. Giáo dục đã đóng vai trò là ngọn hải đăng của sự phát triển và cơ hội và luôn là ưu tiên số một đối với phần lớn cộng đồng người Việt. Và làm nail, đôi khi là hy sinh phần đời mình để vun trồng cho con cái. Rất nhiều phân tích của các nhà kinh tế Hoa Kỳ khi nghiên cứu sự bùng nổ việc thống trị của ngành nail người Việt, đã nhận ra rằng đằng sau những tấm cửa kính tiệm nail, là những con người đang cố gắng tạo ra một cuộc sống khác, không chỉ cho bản thân họ mà cả gia đình họ.

Nhiều thế hệ thành đạt, nổi bật, đem lại niềm hãnh diện cho người Việt ở Mỹ, cũng từ những đồng tiền của cha, mẹ hay anh chị của họ tận tụy với công việc làm nail. “Những gì tôi biết là tiệm nail không chỉ là nơi làm việc và tôn thờ cái đẹp, nó còn là nơi nuôi dạy con cái chúng ta”, Ocean Vương, tài năng văn chương được nước Mỹ vinh danh, viết trong On Earth We’re Briefly Gorgeous (trang 78).

Nghề nail đôi khi bị che đậy, vì có những lý lẽ cho đó là nghề tay chân, không sang trọng. Nhưng những gì tốt nhất, đã từng được bàn tay làm nail của người đi trước không quản khó nhọc và vun trồng. Có những gia đình hãnh diện nói cha mẹ, ông bà của họ đã giúp họ lớn lên, có đủ điều kiện để theo đuổi những câu chuyện cao quý  như khoa học hay triết học. Những thế hệ người Việt Nam chọn nghề nail đã im lặng chấp nhận việc lao lụng để xây đắp trí tuệ của con cháu đời sau, và mỉm cười qua khốn khó như những điều đương nhiên.

Nó là một phận lịch sử tỵ nạn của người Việt, nó là trái tim chia sớt âm thầm nhưng lớn lao cho gia đình, cho bạn bè… Nghề nail hôm nay không còn tiếng tranh cãi, và đã giành được sự chấp nhận toàn phần của công nghiệp làm đẹp, như đóa hoa nở muộn trong lịch sử di dân của Hoa Kỳ. Và như Ocean Vương viết: “Suốt một thời gian dài, con cứ tự nhủ rằng chúng ta là những thế hệ được sinh ra từ chiến tranh – nhưng con đã nhầm, mẹ ơi. Chúng ta được sinh ra từ vẻ đẹp” (trang 221).