Sunday, November 29, 2020
Về miền Tây
BÀI GIÁO KHOA CŨ
Saturday, November 28, 2020
Học để làm gì
Câu hỏi đó chắc vẫn vang lên, vô thanh trong suy nghĩ nhiều người, khi trải qua các chặng cứu trợ hay từ thiện, nơi vô số các em nhỏ hay thanh niên nhọc nhằn với cuộc sống hàng ngày của mình, vật lộn với miếng ăn và tai ương ở miền Trung Việt Nam.
Khi ghé qua hỏi han về gia cảnh, nhiều người đã bối rối thú nhận rằng con cái của họ đã bỏ học từ lớp 4 hay lớp 5. Lý do là để phụ giúp gia đình, hoặc nghỉ học vì đến trường, có chữ thêm, không biết để làm gì.
"Phụ giúp", là kiếm ít củi, trông em, sai vặt... nếu giỏi hơn thì có thể nhận việc ở đâu đó, kiếm được chút tiền cho bữa cơm chiều.
Con đường dẫn ra các vùng Bắc Trung Bộ xa xôi, được biết chuyện có nơi nhiều em nhỏ xin nhận giỏ đeo gạch đi bằng lối mòn đến nơi đang xây dựng trên cao, dài có khi đến 2-3 cây số, để nhận 10.000 đồng một chuyến. Nhưng kinh khủng hơn, ở Đồng Văn, Hà Giang, có chuyện những em cõng hơn 30kg gạch đi vài cây số, chỉ được 2000 đồng/chuyến. Sức chịu các em như vậy, mỗi ngày đi được 3 chuyến.
Nói chuyện với một bà cụ ở làng Húc, Quảng Trị, bà kể cho biết hầu hết cuộc sống của những người trong vùng đều là tự cung tự cấp. Do đó, trẻ con phải tham gia giúp gia đình là đương nhiên. Việc buộc gia đình phải chu cấp cho mình một chút tiền đi học là một điều quá xa xỉ ở những nơi như vậy.
"Như năm nay bão lụt liên tục thì mình làm sao để sống?" - bà cụ nói - "thì mình đi mượn gạo để ăn rồi năm sau ráng làm để trả lại".
Nhưng, không hề có nghĩa là năm sau, họ có thể dư dả và trả được, nên khi những món nợ sống còn như vậy chồng chất, 100 ngàn đồng (khoảng 4 USD) để chi phí tiền học cho một năm trở thành điều quá lớn đối với một đứa bé ở đây.
Vậy nên, mỗi khi có chuyến cứu trợ hay từ thiện nào về, giống như ngày hội. Thức ăn, quần áo là niềm vui, những thứ để được tiếp tục học hành lại càng lớn lao hơn. Có những nơi, trẻ em đi cùng người lớn từ 4-5 giờ sáng, háo hức đến chờ nhận chút quà, mà giá chỉ bằng một bữa nhậu con ở đô thị.
Một gia đình nghèo khó ở Quảng Bình, ở nơi chịu các trận bão lụt vừa rồi, có lúc nước dâng cao đến 4 mét, được mọi người trong vùng giới thiệu, kể rằng đó là một gia cảnh nghèo khó nhất: nhà chỉ 3 mẹ con, bà mẹ bị tai biến, hai đứa con gái thì còn nhỏ, đang đi học. Nghe hướng dẫn của cán bộ trong làng, họ đi xin trợ cấp hộ nghèo, nhưng rồi sau 3 năm, việc giúp đỡ hộ nghèo cũng bị cắt, bởi cán bộ xác định là gia đình này "vẫn cứ nghèo hoài", nên không được giúp nữa. Khi hỏi thêm mới hay, nguồn trợ cấp này bị xà xẻo theo kiểu nào đó, mà mỗi năm, họ chỉ nhận được có 200 ngàn đồng vào dịp tết âm lịch. Đứa con gái lớn, nhận được giấy báo trúng tuyển 2 trường đại học, nhưng rồi phải từ bỏ ước mơ và nghĩ đến chuyện đi làm công kiếm sống.
Chắc rằng, tôi hay các bạn, ai cũng sẽ trĩu nặng những suy nghĩ riêng, khi đối diện với những câu chuyện như vậy, mặc dù vẫn phải cười.
Những hình ảnh và video của anh chị em trong nhóm thiện nguyên Có Mặt Cho Nhau góp gửi về, cho thấy người đi đến nơi trao thật khó nhọc, nhưng để đi đến nhận lấy, cũng không kém. Có những đứa trẻ vừa nhận được phần của mình, đã mở vội những những quyển tập và quà trong chương trình Triệu Quyển Tập Cho Em, xuýt xoa với giấy trắng mà thương.
Con đường dài từ Huế đến Quảng Trị, Quảng Bình... là những dữ liệu dồn nén cho câu hỏi những đứa trẻ Việt Nam học để làm gì? Ngay cả ở những giáo xứ Công giáo tử tế, trẻ em được khuyến khích học đến hết cấp 2 hoặc cấp 3, mọi thứ lại tiếp tục bế tắc ở mức độ cao hơn: chúng làm gì có đủ tiền để ra thành phố lớn học đại học?
Ở các thành phố lớn, nơi con cái của những gia đình đầy đủ vẫn phải đang kêu gào và vật vã về chuyện sách giáo dục cứ đầy đoạ tinh thần trẻ em, thì vạn nơi khó khăn tiếp cận với con chữ như vậy, những đứa trẻ khác sẽ học như thế nào?
Dĩ nhiên, hỏi chỉ là một cách để tự vấn lương tâm về sự bất lực của những đứa trẻ và của chính bản thân mình trước một thế giới đẹp đẽ nhưng đầy ảo ảnh. Chắc rồi ai cũng sẽ có câu trả lời riêng cho bản thân mình. Nhất là khi nhìn vào thế giới sống của chúng ta - nơi đầy những câu chuyện như quan chức dùng tiền bằng cả những ngôi trường lớn hay khu nhà cứu nạn để mua quốc tịch nước ngoài cho bản thân mình - họ im lặng đào thoát khỏi một quê hương nghèo khó, nơi bị giới cầm quyền - bạn bè của họ - rất ung dung chi xài sai, thâm lạm đến hơn 55 ngàn tỷ đồng/năm từ tiền thuế.
Và ngay cả những người dù không ra đi nhưng nhà cao cửa rộng bất thường, dù được trang trí với nhiều bằng cấp hay chức vụ, nhưng trong những giờ phút riêng tư, chắc họ cũng mỉm cười và nói với nhau rằng "học để làm gì".
Tuesday, November 3, 2020
Mệ
Lướt qua trong khung hình camera của tôi là những gương mặt sạm nắng núi. Khó nhọc ở nơi đó khiến người Kinh và người dân tộc Vân Kiều chỉ còn khác nhau một chút ở trang phục. Nụ cười của họ cũng giống nhau: chất phác và chịu đựng. Ngoài người Vân Kiều, ở đây còn có Pa Kô, Tà Ôi, Pa Hy, K’Tu… Các sắc tộc thiểu số ở đây đều nghèo và rất nghèo. Cuộc sống của họ là tự cung tự cấp, phần lớn học vấn cũng không qua tiểu học.
Trong đám đông xôn xao tụ họp ở sân trường chờ phát phiếu, gọi tên nhận quà từ thiện, tôi nhận thấy có một bà cụ ngồi lặng lẽ, kéo điếu thuốc kiểu Cẩm Lệ nhả khói chầm chậm với ánh mắt quan sát, như giễu cợt. Mọi người ở đó ai cũng biết mệ. Ắt mệ là một người nổi tiếng hay quen thuộc trong làng. Ghé lại hỏi thăm mệ đã nhận quà chưa, mệ nheo mắt, cười nửa miệng “mất phiếu phát quà rồi, không biết có được cho không”.
Mệ là cách gọi phổ biến ở miền Trung. Mệ có nghĩa là mẹ, là bu. Nhưng nhích vào phía Thừa Thiên Huế, thì mệ ở đây còn có nghĩa là “bà” theo cách gọi kính trọng con gái (con trai) dòng dõi vua trong triều đình nhà Nguyễn. Phong thái ung dung của mệ, làm tôi cứ liên tưởng đến một mệ hoàng tộc nào đó, lưu lạc đến tận nơi này. Đành phải vấy bùn nhưng không dứt được cội nguồn sang trọng thời son sắc.
Cũng có vài trường hợp những người đến nhận quà từ thiện nhưng bị mất phiếu. Ai nấy cũng đều khẩn khoản và lo lắng. Thế nhưng chữ “mất” nói ra trên khóe môi của mệ, nghe thoảng qua như làn khói thuốc.
Mất, là một động từ quen thuộc của những người miền Trung chịu bão lụt hàng năm. Thậm chí mất là một biến động trong đời có thể pha trộn cả sợ hãi và buồn bã. Vậy mà mệ nói với vẻ nhẹ nhàng, như chừng mất nữa, và có mất thêm nữa, thì có sao đâu.
Mệ có một phong thái đầy uy lực khác thường. Không cầu xin, không vội vã. Cười nhẹ và thản nhiên. Sự ung dung của mệ cũng khiến mấy chị mấy cô chung quanh sốt ruột giùm, lao xao nói để làm chứng cho vụ mất phiếu nhận quà của mệ. Buổi sáng phát quà trôi qua dưới trời lâm râm mưa, âm u không nắng. Những người cuối cùng cũng ra về. Tôi để ý tìm xem mệ có nhận được quà chưa thì thấy mệ cũng lững thững ra về, vai khoác túi quà. Miệng vẫn bập điếu thuốc rê hờ hững trên môi. Nhác thấy tôi nhìn, mệ cười (cũng kiểu cười rất “mệ” ấy) và gật đầu, ra dấu cám ơn. Mệ làm động tác như hỏi tôi có hút thuốc không, chắc muốn mời tôi một hơi Cẩm Lệ chăng. Thấy tôi từ chối và chào, mệ lại cười và quay lưng chậm rãi đi.
Chúng tôi lại chạy lui ra, vội vàng, để tránh việc nhà máy thủy điện gần đó có thể xả lũ bất cứ lúc nào, do dự báo mưa lớn ập đến. Chạy dọc những ngôi nhà xiêu vẹo, dọc theo các bãi bờ đã ngập bùn, người đi chung chỉ cho tôi thấy những dấu bùn còn bám lại trên những thân tre cao, tức dấu nước đã dâng ghi lại thành mốc: có nơi cao cả ba mét. Tôi tự hỏi những người như mệ sẽ làm thế nào vào những lúc như vậy. Giữ được một phong thái an nhiên ở vùng đất mờ sương, sạt lở, nước nối trời bất định kỳ, ắt hẳn, những người phụ nữ như mệ đã coi sống chết như lẽ vô thường, chấp nhận và tồn tại theo định mệnh cộng thêm một chút vui buồn làm gia vị mà thôi.
Nhìn qua ô kính, lướt qua các lũng sâu, tôi lại nghĩ đến hàng ngàn phụ nữ Việt Nam đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan, hay dứt áo ra đi xuống các đô thị lớn để kiếm sống, tự giam mình trong các căn nhà trọ nóng nực, nhỏ hẹp để tìm một “tương lai”, chỉ mong là có một cuộc sống khác bớt khắc khổ hơn với nơi nông thôn họ đang sống. Mỗi người có một giấc mơ của mình, có những khát vọng nhỏ bé… mà đôi khi khởi đầu chỉ bằng một căn phòng có nhà vệ sinh đúng nghĩa. Những cuộc đời Việt Nam mang theo giấc mộng con hiền lành, chịu nhiều phán xét nhưng chắc gì đã toại.
Mệ ngày xưa chắc là một phụ nữ đẹp, khối thằng đàn ông chắc đã mê mệt chạy theo mệ ấy chứ. Nhưng rồi mệ đã lỡ chuyến tàu định mệnh nào đó của mình, nên giờ chỉ nhẹ nhàng cười nửa miệng và chấp nhận những buổi chiều heo hút ngập sương mù bao phủ cả dãy Trường Sơn đến cuối đời.
Có bao nhiêu phụ nữ như mệ, đành lặng lẽ và cô đơn trong cuộc đời Việt Nam của mình như vậy, một Việt Nam rực rỡ đèn màu phố thị dễ làm quên bóng tối sâu hút ở các vùng quê. Câu hỏi đó, hiu hắt cả giấc ngủ mệt nhoài của tôi, và dù tỉnh dậy, tôi biết chắc rằng mình cũng sẽ khó mà tìm thấy được một lời đáp.
—————-
Khác với những tộc khác, người Vân Kiều có đến hơn 90% lấy họ Hồ, mà theo lời kể từ lịch sử đảng Cộng sản, thì để tỏ lòng biết ơn và kính trọng ông Hồ Chí Minh nên người Vân Kiều, Pa Kô đều lấy họ Hồ. Nhưng chiều dài khác của lịch sử thì ghi rằng, trước khi bước sang Kinh hóa họ tên của mình theo giấy tờ, người Vân Kiều thường có họ là Arâl, Târnau, Kê, Pata, Plo, Prung… dựa trên sự vật, cây cỏ, con thú… Sau khi được chiêu mộ làm bộ đội Bắc Việt, một người Vân Kiều tên là A Vai được phong danh hiệu anh hùng, và được ông Hồ Chí Minh ban cho họ của mình, được gọi là Hồ A Vai. Anh A Vai khi quay trở về làng của mình và cũng vận động tất cả dân làng lấy họ của ông Hồ Chí Minh.
Năm 1946, trước khi chuẩn bị cho Tổng tuyển cử, từ chiến khu Việt Bắc, ông Hồ Chí Minh cử đoàn cán bộ vào thăm hỏi đồng bào hai dân tộc Pa Kô, Vân Kiều ở mặt trận phía Tây Trị Thiên, mang theo nhiều bức hình của ông tặng các bản, tặng nhiều áo lụa cho các già làng, thuyết phục tộc này đi theo đảng Cộng sản. Nghe lời cán bộ, các già làng đã tổ chức đâm trâu, đồng ý đổi họ Kinh là Hồ để ghi tên trong thẻ cử tri, cho việc tổng tuyển cử. Đó là tháng 6-1946. Hiện chỉ còn có vài phần trăm người Pa Kô, Vân Kiều ở Đông Trường Sơn là còn giữ họ gốc theo truyền thống của mình. Nhưng cùng với những người cùng sắc tộc của mình đã đổi họ theo Kinh, tất cả đều nghèo khó.
Monday, November 2, 2020
Ngày nắng vẫn lên (Ký sự vùng lũ 2020)
Đầu giờ chiều ngày cuối tháng 10, mưa như trút nước khi đoàn xe từ thiện băng qua những cánh đồng ngập trắng của Quảng Bình. Trời mù che tầm nhìn, nhạt nhòa hòa không gian mênh mông những cánh ruộng phủ nước, mưa trắng xóa bốn phía. Xe chạy vào vùng của Giáo xứ Cồn Sẻ, một trong những nơi mà người dẫn đường nói là có ngày, dân phải ngủ đứng trong nước...