Monday, May 16, 2022

Nhớ tác giả bài hát bất hủ Ai Về Sông Tương


Bài Ai Về Sông Tương ký tên tác giả Thông Đạt là một trong hai bút danh khác của nhạc sĩ Văn Giảng. Bút danh còn lại là Nguyên Thông, dùng để viết các ca khúc Phật giáo, nổi tiếng với bài Từ Đàm Quê Hương Tôi, ngoài ra còn các tác phẩm khác nổi tiếng khác mà ít ai biết là của ông như Vô Thường, Mừng Đản Sanh, Hoa Cài Áo Lam, Ca Tỳ La Vệ…

Nhạc sĩ Văn Giảng, tên đủ là Ngô Văn Giảng, một trong những tài năng âm nhạc của người Việt thuộc nền văn hóa VNCH, thành danh và đóng góp không ít cho nền văn hóa mà ông phục vụ, với cả những dòng tác phẩm bình dân cho đến học thuật. Thậm chí sau năm 1975, khi tìm đến định cư ở Úc, ông cũng làm việc không ngừng, góp sức xây dựng văn hóa âm nhạc cho cộng đồng người Việt đang tập hợp ở đây. Ông qua đời ở thành phố Footscray, tiểu bang Victoria, Úc, ngày 9 Tháng Năm 2013, hưởng thọ 89 tuổi.

Văn Giảng sinh năm 1924, tại làng Bác Vọng Ðông, Thừa Thiên. Ông sinh ra trong một gia đình Phật Giáo thuần thành, song thân làm nghề thương mãi, và ông thú nhận học lực của ông không qua hết bậc trung học. Sau khi học ở trường tiểu học Paul Bert, rồi Phú Xuân, ông phải nghỉ học sớm để ở nhà giúp cha mẹ. Trong suốt thời ấu thơ, Ngô Văn Giảng chịu ảnh hưởng của nhạc cổ điển qua những ban nhạc tài tử dân giã của đất Thần Kinh. Không qua một trường lớp âm nhạc nào, nhưng ông đã trở thành một người chơi đàn guitar, hawaiian guitar và contrebass nổi tiếng ở Huế, là trưởng ban nhạc của Đài phát thanh Huế, từ lúc đài này mới thành lập (1949), và sau đó là Giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế (1963). Ông và nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba là người khởi xướng phong trào sáng tác và sinh hoạt Phật nhạc tại miền Trung.

Ðài phát thanh Huế, dưới thời của Giám đốc Ngô Ganh, ban nhạc của Văn Giảng tuy là một ban nhạc nhỏ, nhưng quy tụ nhiều ca, nhạc sĩ nổi tiếng sau này như Lê Quang Nhạc, Trần Văn Tín (về sau là Đại tá ngành quân nhạc), ca sĩ Minh Trang, Tôn Thất Niệm (nay là bác sĩ tại Nam California)… Năm 1963, Văn Giảng được bổ nhiệm làm Giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế.

Sau năm 1968, vì quá sợ các thành phần Việt cộng nằm vùng tại Huế, ông chuyển vào Sài Gòn sinh sống và học thêm. Ông tốt nghiệp Anh văn ở Hội Việt Mỹ và trúng tuyển cuộc thi tuyển sinh viên nghiên cứu về âm nhạc ở ngoại quốc, được xuất dương du học tại trường Âm nhạc lớn của Hoa Kỳ ở Hawaii và Bloomington. Ở Hoa Kỳ, Văn Giảng đã tốt nghiệp với lời khen của Ban Giám khảo và được cấp thêm học bổng để nghiên cứu bậc cao học âm nhạc. Bộ Văn hóa VNCH mời ông vào giảng dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Trong thời gian này, ông gặp nhạc sĩ Châu Kỳ – mà theo nhạc sĩ Lê Dinh kể lại – là người bạn đã chỉ dẫn ông đi vào con đường làm giàu nhờ viết nhạc.

Sài Gòn là nơi phát hiện tài năng ca khúc đời thường của nhạc sĩ Văn Giảng. Và từ đó, ông cũng bắt đầu sáng tác những tình khúc “hái ra tiền”. Ký bản quyền cho hãng dĩa xuất bản Asia, Sóng Nhạc… Văn Giảng đủ tiền mua một căn nhà khang trang mặt tiền trên đường Thoại Ngọc Hầu, mà theo lời ông tả là sự sung túc ở đất Sài Gòn đến nhanh chóng khiến ông cũng phải ngẩn ngơ. Những bản nhạc của Văn Giảng như Hoa Cài Mái Tóc, Tình Em Biển Rộng Sông Dài, Ðôi Mắt Huyền… được ấn hành hàng chục ngàn bản, phổ biến rộng rãi trên thị trường, điều mà trước đây, khi còn là giáo sư âm nhạc ở Huế, Văn Giảng không hề nghĩ đến.

Chuyện sáng tác Ai Về Sông Tương của nhạc sĩ Văn Giảng cũng là một đoạn sử nhạc thú vị. Bài hát được viết năm 1949, đã “top hit”, được thính giả yêu cầu nhiều nhất của Đài phát thanh Pháp Á trong hai năm 1949-1950 dưới một cái tên gây tò mò khắp nơi, là Thông Ðạt. Cái tên mới nghe lần đầu trong giới nhạc sĩ. Bản nhạc đó trở thành một trong những ca khúc bất tử của dòng nhạc tự do tại miền Nam và ra đến hải ngoại hôm nay.

Nguyên do của cái tên Thông Đạt, được nhạc sĩ Lê Dinh, một người cùng thời chia sẻ lại, là có dính líu đến một người bạn của ông Văn Giảng, là ông chủ của một nhà xuất bản âm nhạc ở Huế, là ông Tăng Duyệt. Trong những thập niên 1940-1950, ở Huế ai ai cũng biết ông Tăng Duyệt, Giám đốc nhà Xuất bản Tinh Hoa Huế (khác nhà xuất bản Tinh Hoa miền Nam ở Sài Gòn do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo làm giám đốc) in ấn và phát hành một số nhạc phẩm ít ỏi của thời đó.

Văn Giảng chơi thân với ông Tăng Duyệt vì một số hành khúc của ông đều do nhà xuất bản Tinh Hoa Huế của ông Tăng Duyệt ấn hành. Một hôm trong lúc vui miệng, ông Tăng Duyệt có ngụ ý thách thức rằng Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở trường của Văn Giảng.

Nghe vậy, nhạc sĩ Văn Giảng về nhà, âm thầm lấy giấy bút viết bài Ai Về Sông Tương, không ghi tên tác giả là Văn Giảng như mọi khi mà đề tên tác giả là Thông Đạt, một bút hiệu mới toanh trong làng tân nhạc Việt Nam thời đó. Bản Ai Về Sông Tương được tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Ca khúc này bùng phát khắp nơi với sự hâm mộ của công chúng, và tò mò của giới sáng tác thời đó: Thông Đạt là ai vậy?

Điều thú vị là sau nhiều lần được nghe bài Ai Về Sông Tương và quá hâm mộ, ông Tăng Duyệt nhờ nhạc sĩ Văn Giảng dò hỏi trong giới nhạc, xem có biết Thông Đạt không để ký mua các tác phẩm mới. Nhạc sĩ Văn Giảng cười thầm trong bụng, cũng hứa là sẽ hỏi thăm dùm. Bất ngờ ngày nọ, Văn Giảng thấy ông Tăng Duyệt lái xe đến nhà, nắm tay ngưỡng mộ. Hóa ra hai người bạn là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng và nhà văn Lữ Hồ vô tình nhìn thấy bản thảo viết tay Ai Về Sông Tương của Văn Giảng trên bàn làm việc, phát hiện và lén nói cho ông Tăng Duyệt biết. Vừa nghe xong, ông Tăng Duyệt đã giật mình, chạy đi tìm Văn Giảng ngay.

Có người lý giải rằng Thông Đạt là tên mà nhạc sĩ Văn Giảng muốn ngầm chứng minh khả năng của ông là cái gì cũng có thể là được. Thế nhưng thật ra, đó là tên ghép pháp danh của ông là Nguyên Thông và vợ là Tâm Đạt.

Sau này, một trong những lý do nhạc sĩ Văn Giảng rời Huế, vào sống ở Sài Gòn, là bởi ông chứng kiến cuộc thảm sát 1968, một trong những người bạn thân của ông là ông Tăng Duyệt cũng bị giết chết. Lý do ông Duyệt bị hành hình, một phần là đã in ấn và phát hành nhiều ca khúc ca ngợi tinh thần quân đội VNCH, trong đó có nhiều bài sáng tác của Văn Giảng. Buồn chán, Văn Giảng dời vào Sài Gòn, hy vọng để bớt đau buồn tìm thấy một nguồn sinh khí mới.

Nguyên nhân mà ít ai nghĩ Thông Đạt là một bút danh của Văn Giảng, bởi sự nghiệp khởi đầu của ông, hầu hết là hùng ca như Thúc Quân (1949), Lục Quân Việt Nam (1950), Đêm Mê Linh (1951), Quân Hành Ca (1951), Qua Đèo (1952), Nhảy Lửa (1953)… Một trong những bài hát hùng ca do nhạc sĩ Văn Giảng viết ra, những ai đã sống dưới hai đời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa miền Nam đều nghe thấy, đó là Lục Quân Hành Khúc.

Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn

Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang

Đi đi đi, lời thề nguyền, tung gươm thiêng, thi gan trai

Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi…

Cuộc đời của nhạc sĩ Văn Giảng ở Thành Đô miền Nam là một bước ngoặt mới. Văn Giảng được Bộ Văn Hóa Giáo Dục đề cử làm Trưởng Phòng Học Vụ Nha Mỹ Thuật, đảm trách học vấn của các trường Âm nhạc Sài Gòn, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật. Năm 1970, ông được huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (âm nhạc loại A) với sáng tác phẩm Ngũ Tấu Khúc (Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm Giám đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền đại nội Huế do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại Osaka (Nhật Bản).

Sau năm 1975, như mọi trí thức và tài năng văn hóa nghệ thuật của VNCH, ông rơi vào bế tắc và trầm cảm nặng. Theo lời kể, ông luôn tìm hỏi cách và nơi vượt biển, sau khi chứng kiến quá nhiều người – kể cả thầy giáo, nghệ sĩ… thậm chí công chức đã về hưu cũng bị đưa đi tù “cải tạo” mà không biết nơi giam nhốt ở đâu, sống chết ra sao.

Năm 1978, Văn Giảng từ Cần Thơ vượt biển với người con trai đầu lòng đến Indonesia. Khi đến đảo Natuna, hồ sơ của ông được ưu tiên do từng du học tại Hawaii, ông đủ điều kiện định cư tại Mỹ, nhưng vì muốn sớm bảo lãnh cho vợ và sáu đứa con còn lại, ông bằng lòng chọn Úc làm quê hương thứ hai. Ðến Melbourne, Văn Giảng sinh sống bằng nghề dạy nhạc tại tư gia về các môn sáng tác hòa âm cũng như sử dụng các nhạc khí như guitar, hawaiian guitar và contrebass cho người Việt mới đến định cư cũng như cho các sinh viên Úc. Suốt trong hơn 30 năm sống ở Úc, Văn Giảng vẫn tiếp tục soạn nhiều sách dạy nhạc, sử dụng nhạc cụ bằng cả hai thứ tiếng Việt, Anh, giới thiệu âm nhạc Việt Nam.

Văn Giảng, là một trong những nhạc sĩ tài hoa đáng kính của Việt Nam. Ông chọn sống và ra đi chỉ vì được tự do viết, hát với âm nhạc của mình muốn. Sự ra đi của ông cũng là một trong những sự mất mát đáng tiếc của di sản văn hóa Việt Nam tự do một thời.

Theo di nguyện, nhạc sĩ Văn Giảng muốn được hỏa táng và thả tro xuống biển, như mong được có lúc xuôi dòng theo về lại cố hương. Ký giả Hoài Nam của Đài SBS từng viết về di nguyện của ông “Có lẽ ông hy vọng sóng nước Thái Bình Dương sẽ đưa tro cốt của ông về biển Đông, rồi ngược dòng sông Hồng đưa ông về quê xưa Nam Định. Biết đâu rồi đây tro cốt của nhạc sĩ Văn Giảng cũng sẽ trôi dạt về cửa Thuận An, và sau cùng tới cố đô Huế bên dòng sông Hương – con sông mà ngày xưa nhạc sĩ đã đổi tên thành “sông Tương” trong tình khúc để đời của mình – và cũng là ca khúc Việt Nam mà cho tới nay vẫn còn được nhiều người tìm nghe lại”.

Saturday, May 7, 2022

Tìm gặp tác giả "Thề không phải bội quê hương" ở Sài Gòn


Trong lịch sử của nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân, chuyện ông bị nghỉ dạy sau 18 năm theo nghề chưa từng được kể là vì sao. Trong những ghi chú ngắn ngủi về cuộc đời của ông, trang Wikipedia tiếng Việt, chỉ ghi một dòng ngắn ngọn là “Năm 1978, Sở giáo dục chính quyền mới cho thôi việc, ông xin qua ngành bưu điện làm công tác văn nghệ quần chúng cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2000”. Thế nhưng chuyện có đầy những chi tiết đáng nói của nó.


Tác giả những bài hát nổi tiếng như Bạc Trắng Lửa hồng, Hái Hoa Rừng Cho Em, Thề Không Phản Bội Quê Hương, Xé Thư Tình… có một giai đoạn giai đoạn sau 1975 mà ông ít khi chia sẻ với ai. Thậm chí cuộc đời âm nhạc của ông cũng không được mô tả đầy đủ, do chính ông cũng không kể. Thập niên cuối 60 là giai đoạn bùng phát những bài hát được chú ý của ông nhưng vì muốn giữ một phong cách nghiêm trang khi đi dạy học mà nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân lấy một bút danh khác, không cho nhiều người biết về mình.


Ông kể là mình thời trẻ, có tên là Nalis Trương, và thường được bạn bè gọi trại đi là Linh. Khi bắt đầu sáng tác ca khúc, thì ông thường để bút danh là Thy Linh, mà theo ông kể ngày xưa, thời trai trẻ yêu đương, ông có yêu say đắm một thiếu nữ tên Thy học ở trường Gia Long, và thường trò chuyện với nhau, đùa là “Thy yêu Linh” tức gọi tắt là Thy Linh. Nên sau này ông in trên các ấn phẩm nhạc bản bút danh đó, vì để cho cô gái ấy đang ở đâu cũng có thể nhìn thấy cái tên bí mật giao ước giữa hai người.


Bài hát đầu tay mà nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân sáng tác với cái tên Thy Linh, cho ra mắt là ca khúc Trai Thời Loạn. Văn bản này đến tay khán giả âm nhạc vào Tháng Mười Hai 1965.


Tương tự như nhạc sĩ Đài Phương Trang, do là thầy giáo, nên dù sáng tác âm nhạc, các ông đều thường giữ kín hoạt động văn nghệ của mình. “Thời đó, người ta cũng xét nét dữ lắm. Thầy giáo mà vô nghề đờn ca nhiều khi bị hiệu trưởng hay phụ huynh dòm ngó bằng con mắt khó khăn lắm”, nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân kể.


Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân, sinh năm 1939, đến năm 2022 thì ông đã 83 tuổi. Cuộc đời ông trải qua buồn nhiều hơn vui nên ông ít giao tiếp, ít bạn bè và cũng không thường ra ngoài căn nhà nhỏ trên đường Trương Tấn Bửu, Quận 3 (nay là đường Trần Huy Liệu).


Vì sinh ra trong gia đình ở Sài Gòn, nhưng không mấy khá giả nên từ nhỏ, nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân đã phải xin đi đánh đàn ở các nhà hàng, phụ vào việc sinh sống của gia đình. Do học nhạc ở nhà thờ và tính tò mò muốn biết mọi thứ nên nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân biết chơi rất nhiều nhạc cụ, mà theo ông nhẩm đếm thì cũng phải là 15 loại.


Năm 1960, Trương Hoàng Xuân tốt nghiệp sư phạm và về dạy tại một trường ở Long Khánh, tỉnh Bình Tuy cũ. Đến năm 1968 thì ông đi lính và được điều về Đài phát thanh Quân đội làm việc chung với những nhạc sĩ ăn khách thời đó như Tô Kiều Ngân, Đỗ Kim Bảng, Trầm Tử Thiêng.


Năm 1972, ông được Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa bổ nhiệm về dạy nhạc tại trường Trung học tổng hợp Nguyễn An Ninh, Quận 10.


Theo lời nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân kể lại, khi ra trường và bắt đầu đi lập gia đình từ năm 1961, tiền lương người thầy (lúc đó chỉ mới 22 tuổi) đi dạy lúc đó đã đủ nuôi gia đình của ông nên chuyện sáng tác chỉ là phần kiếm thêm cho vui. “Nhiều khi ghé ra quán Kim Sơn, Khánh Băng thấy tôi, ngoắc lại và móc túi đưa mấy ngàn, nói là phần của tôi trong bài gì đó. Tôi nghe rồi nhét túi chứ cũng không để ý”, nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân kể.


Năm 1971, bài hát Thề Không Phản Bội Quê Hương của ông trở thành một trong những bài hát được nhiều nơi trình bày. Sau năm 1975, bài hát này được các trung tâm và hội đoàn người Việt hải ngoại hát lại với một tâm tình hết sức xúc động. Nhiều người nhận định rằng loạt các bài hát hào hùng và đầy tính dân tộc, tự do như Việt Nam Việt Nam (Phạm Duy), Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ (Nguyễn Đức Quang), Mẹ Việt Nam ơi, Chúng Con Vẫn Còn Đây (Nguyễn Ánh 9)… thì bài Thề Không Phản Bội Quê Hương của nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân cũng là một phần đóng góp không nhỏ.

Một cánh tay đưa lên

Hàng ngàn cánh tay đưa lên

Hàng vạn cánh tay đưa lên

Quyết đấu tranh cho một nền hòa bình công chính

Đập phá tan mưu toan, đầu hàng cái quân xâm lăng

Hoà bình phải trong vinh quang

Đền công lao bao máu xương hùng anh…


Ngày ra mắt bài hát này, được nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân nhớ lại, ông được mời ra tham dự ở Đại học Thành Nhân, sát vùng Chợ Lớn. Bài hát nằm trong băng cassette với tiêu đề Thề Không Phản Bội Quê Hương, cùng nhiều bài hát khác, được hòa âm bởi nhạc trưởng Viết Chung thuộc đoàn Văn Công Chí Linh trong Trung Tâm Huấn Luyện Xây Dựng Nông Thôn Chí Linh. Ngày 19 Tháng Mười Hai 1971, khắp nơi ở miền Nam vang lên bài hát này. Bài hát này được biết thêm là do Cục Chỉnh Huấn của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đặt riêng nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân sáng tác.


Cũng do ít ra ngoài và ít người biết mặt, nên nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân may mắn không bị “điểm danh” sau năm 1975. Tuy nhiên dần dần, ông cũng bị phát hiện là tác giả của bài hát Thề không phản bội quê hương cùng nhiều ca khúc thành danh khác.


Năm 1978, cuối cùng thì trong một đợt “học tập tinh thần cách mạng” dành cho tất cả các học sinh được tổ chức ở trường Nguyễn An Ninh, Quận 10, nơi ông đang dạy. Một cán bộ lên bục, cầm micro và nhấn mạnh về sự len lỏi của giới trí thức phản động, vẫn còn im lặng cất giữ những tư duy tàn dư chế độ cũ. Tên của ông thầy Trương Hoàng Xuân được kể ra, mà một học sinh đi “học” về kể cho ông nghe rằng cán bộ đay nghiến “Chẳng hạn như cái tên Trương Hoàng Xuân vẫn im lặng luồn sâu đứng cầm phấn dạy học là điều không thế chấp nhận được”.


Để minh chứng cho những tư tưởng tội lỗi của nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân, ngoài bài Thề Không Phản Bội Quê Hương, cán bộ đọc tên từng bài hát “văn hóa đồi trụy”của ông như Bạc Trắng Lửa Hồng, Trao Người Ở Lại, Dư Âm Một Chuyến Đi, Những Ngày Hoa Mộng, Xé Thư Tình… Nhưng khổ thân ông thầy, cứ mỗi tên bài hát mà giới học trò biết, chúng lại vỗ tay một tràng, khiến cán bộ tức giận thêm và ra lệnh cho bà Hiệu trưởng là phải đuổi ra khỏi trường ngay.


Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân kể, ông buồn rười rượi khi cầm cái giấy cho thôi việc. Đạp xe đạp lang thang Sài Gòn cho đỡ buồn, bất ngờ ông lại gặp một người bạn đang làm trong bưu điện. Trò chuyện đôi chút và biết ông đang khốn đốn vì không có việc làm, phải nuôi một gia đình có sáu đứa con, nên người bạn này mới dẫn ông về chỗ làm – vốn đang cần người huấn luyện cho đội văn nghệ – giới thiệu cho ông làm ở đây. Chấp nhận làm người dạy hát, dạy đàn và ẩn danh, nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân làm việc cho đến năm 2000 thì về hưu.


Từ đó, đời sống khó khăn và bản thân ông cũng trở nên cáu gắt do mang nhiều bệnh tật khiến gia đình không hòa thuận. Sau đó, ông và vợ ly hôn. Nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân chọn về sống cô đơn ở căn nhà nhỏ chỉ 20 m2 trong hẻm. Chỉ trong một đoạn ngắn hơn 100 m, có hai nhạc sĩ ở cùng một chỗ: Đầu đường là nhạc sĩ Y Vân, còn cuối đường là nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân.


“Người ta hay nói đùa là hai ông nhạc sĩ này bị nghiệp vận vào đời. Y Vân thì viết 60 Năm Cuộc Đời nên ra đi đúng vào tuổi 60. Còn Trương Hoàng Xuân thì viết Xé Thư Tình nên không có ai thương, phải sống cô đơn đến chết”, ông nói và gật gù cười.


Nhận xét về mình, nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân thở dài “ông chia sẻ: “Tôi nghiêm khắc trong việc giáo dục con bao nhiêu thì vợ dễ dãi bấy nhiêu. Các con không ưa tôi, nói tôi quá khắt khe.” Ông nói dù phải ly hôn nhưng lúc nào ông cũng nhớ về con và vợ của mình. Với ông đó là thời gian hạnh phúc nhất.


Trước khi chia tay, khi hỏi ông về chuyện bài hát Bạc Trắng Lửa Hồng nay đang bị phía thừa kế của nhạc sĩ Khánh Băng tranh chấp, ông lắc đầu, buồn. Bài hát đó thuở đầu ông sáng tác giai điệu, đặt là Tơ Hồng rồi đưa cho nhạc sĩ Khánh Băng xem. Vì thích quá nên nhạc sĩ Khánh Băng đề nghị là người viết lời cho toàn bộ giai điệu của ông viết ra. Trên các văn bản in trước năm 1975 cũng có ghi rõ tên hai người. Thế nhưng sau 1975, nhiều thứ được tìm lại, lấy lại, và có khi tác giả cũng đã qua đời, không có ai giải thích nên thường xảy ra tranh chấp. Đặc biệt lúc nhạc trước 1975 lại lấy được tiền bản quyền.


“Tôi có viết giấy không tranh chấp bản quyền nữa. Vì thấy phiền quá. Hơn nữa Khánh Băng cũng là bạn, mà nó thì cũng mất rồi”, nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân nói, mắt nhìn xa xăm.


Khi được hỏi về những bài hát, hay kỷ niệm sinh hoạt âm nhạc thời tuổi trẻ, bao giờ câu nói đầu tiên của nhạc sĩ Trương Hoàng Xuân cũng là “quên rồi, không nhớ”. Nhưng khi trò chuyện thêm và được tin tưởng, ông lại kể rất nhiều chi tiết thú vị. Phải chăng thói quen ẩn danh và chỉ mong sống cho yên kể từ khi bị đuổi khỏi nơi dạy học của ông, đã tạo cho ông một tập tính mới, không còn dễ mở lòng mình?

Friday, May 6, 2022

Danh dự, chỉ có một loại danh dự

Cú tát chuẩn bị giáng xuống vì danh dự của trung tá Đặng Đình Đoàn, Phó trưởng Công an phường Sông Bằng, được video gia đình ghi lại.

Phó Trưởng Công an phường Sông Bằng, trung tá Đặng Đình Đoàn, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng trong báo cáo gửi Công an tỉnh, giải thích hành động tát hai lần cô gái và vỗ đầu nam thanh niên trong video được công khai trên mạng là "do bị xúc phạm nên bức xúc".

Trong video, người ta thấy ông Phó Công an phường Cao Bằng tát thẳng tay. Cái tát có thể thấy lực được dồn hết sức. Theo lẽ thường "mắt đền mắt, răng đền răng", thì mức xúc phạm danh dự của vị công an này rất lớn - chắc chắn là lớn - nên ông đã dùng lực tương ứng để đánh trả. Có nghĩa là mọi thứ được vay trả theo luật giang hồ - luật giang hồ có màu áo công quyền.

Thế nhưng, ông Đoàn không tìm hiểu vì sao bạn của ông, tay bác sĩ phụ khoa vô danh nào đó, đột nhiên nửa đêm gọi cho người phụ nữ trong video, yêu cầu đến ngay để "khám phụ khoa". Từ đó dẫn đến cãi vả. Cũng có thể ông bác sĩ phụ khoa vì quen biết công an địa phương - cụ thể là với ông trung tá Đặng Đình Đoàn - nên mắc chứng ảo giác thân phận, cho mình cũng là quan ký sinh, nên nửa đêm lại nằng nặc đòi "khám" dân.

Trong video, công an rất chuẩn mực hành sự. Ập đến là họ quay video làm chứng ngay - dù mọi lý do xông vào hoàn hoàn bất hợp pháp. Và khi cô gái chất vấn ông Đoàn bắt người vì lệnh gì, giấy tờ đâu, ông Đoàn gầm lên ""chửi, chửi, con này láo chửi, vả chết mẹ nó”. Tay mặc áo xanh công an bên cạnh, điếu đóm cầm điện thoại đưa cho ông Đoàn, nói lớn "có bằng chứng là nó chửi anh, bắt ngay và luôn".

Bức tranh tồi tệ và nực cười như trong "Ngao Sò Ốc Hến", loại quyền lực của bọn quan lại thối nát ghê tởm mà chính quyền hôm nay luôn nguyền rủa. Bức tranh của thế kỷ 21 nực cười đến ứa nước mắt.

Quả là bị xúc phạm danh dự thì phải hành động ngay. Trong 6 điều mà ông Hồ Chí Minh để lại cho ngành công an, có điều 2 và điều 5 luôn được nề nếp tuân thủ: Đối với đồng sự phải: Thân ái Giúp Đỡ (Điều 2) và  Đối với công việc phải: Tận Tụy (Điều 5). Giúp nhau vì thân ái và tận tụy tạo chứng cứ, thì thật không thể trách được.

Trên các trang mạng, người dân không quên. Họ nhắc lại vụ án được xử ngày 23 Tháng 8, 2011, khi cô gái đang học lớp 12 Phạm Thị Mỹ Linh tát một viên công an giao thông, do tức giận, cho rằng mẹ cô đã bị bắt dừng xe vô cớ để kiểm tra, đã bị tuyên 9 tháng tù. Cú tát được mô tả là không đủ lực với một viên công an, nhưng cô bị xử vì tội chống người thi hành công vụ vì thái độ. 

Tại phiên tòa xử lưu động công khai ở Tân Thới Hiệp (P.Tân Thới Hiệp, Q.12) viên thẩm phán tuyên bố thái độ, hành động như vậy là xúc phạm danh dự chiến sĩ công an nhân dân.

Nữ sinh cùng mẹ ngất xỉu khi nghe tuyên 9 tháng tù

Điều nhận ra là trong video, ông công an Đoàn dẫn theo một nhóm người ập vào, không có quy cách, quy trình gì về xét xử, cũng như không có giấy tờ chứng minh, hành động như một loại giang hồ bảo kê khu vực, nhưng sau đó, đổ tât cả cho "danh dự". Chưa thấy ông Đoàn nói rõ, đó là danh dự của một con người có học hay của một chiến sĩ công an.

Danh dự nào? Danh dự của ai? Chúng ta rõ là đang sống trong một thời đại bị đánh tráo hình ảnh, suy nghĩ, khái niệm. Thậm chí có những kẻ cứ cố vơ vào mình loại "danh dự" ảo tưởng bên cạnh thứ quyền lực đã tha hóa, coi nhân dân là một thứ hạng để cai trị. Một thứ hạng chắc sẽ không có quyền được viện dẫn về danh dự như ông Đoàn - một công an.

Danh dự của một người dân Việt Nam, như các nhân vật trong video, vẫn bị sống trong tình trạng bất an, bởi không biết khi nào sẽ bị cướp đoạt, kể cả sự thật. Mọi thứ có thể bị mất đi ở đường phố lẫn ở trong nhà. 

Cũng may sự nhẫn nhịn của những người bị cướp danh dự đủ lớn, để không có ai phản ứng đánh lại bọn sai nha điên cuồng và thâm hiểm đó. Nếu không, giờ họ đang mang án "chống người thi hành công vụ", chứ không phải là nghe ông công an hát bài ca đau thương về danh dự.

Hãy nghĩ thử xem. Để sống còn, thì tương tự như những nạn nhân trong video, có phải những người dân thấp cổ bé miệng khác vẫn phải tự thủ tiêu danh dự và quyền được chống trả bất công bằng sự thật của mình để được an toàn? 

Quả là danh dự, chỉ có một loại danh dự.