Friday, December 28, 2018

Yêu sách 2019 với tám điểm :”Đó là ý nguyện của nhân dân”





Không thể không thấy bản Yêu sách 2109 với tám điểm gửi đến nhà cầm quyền Việt Nam, là một văn bản thú vị cũng như có sức tác động mạnh mẽ trong người dân. Thế nhưng cũng vì sự mạnh mẽ này mà không ít người lo ngại rằng đó là một thách thức với thể chế, nhất là vào thời buổi tòa án dành cho người bất đồng chính kiến diễn ra không ngớt.
Đặc biệt là sau vài tuần lễ, từ lúc bản Yêu sách 2019 được phát đi, mọi thứ đều là im lặng. Có thể đó sự im lặng của nhận thức thiện chí – tạm hy vọng – hoặc đó có thể là sự im lặng trước bão tố với những âm mưu thấp hèn.
Cuộc trò chuyện cuối năm với nhà báo Võ Văn Tạo, người ký tên trong bản Yêu sách 2019 này, đã mở ra thêm nhiều chiều suy nghĩ khác. Đặc biệt, về suy nghĩ của những người dấn thân cho sự thay đổi tốt đẹp của đất nước, vốn chỉ có trái tim yêu nước, sẳn sàng đối diện với dùi cui, ngục tù hay lý luận hàm hồ chủ nghĩa.

-----------

Một lần nữa, Yêu sách – hay thư ngỏ của giới trí thức Việt Nam gửi đến nhà cầm quyền đã rơi vào im lặng. Theo ông những người soạn ra bản Yêu sách 2019 có nên thất vọng trước sự im lặng này không?
Thật ra những thư ngỏ, kháng nghị hay yêu sách… của giới trí thức hay tranh đấu cho dân chủ tự do của Việt Nam, hầu hết mọi người khởi xướng hay ký tên đều không kỳ vọng gì nhiều. Vì theo dõi trong suốt bao nhiêu năm nay, cho thấy những người cộng sản cầm quyền không hề lắng nghe.
Nhìn lại để thấy, bản yêu sách được nhóm Ngũ long ở Paris được chuyển đến hội nghị Hòa bình Versailles (1919) thì ít nhiều gì đó, người Pháp cũng tiếp thu, đặc biệt với hội nghị Mặt trận bình dân. Còn những tuyên bố, khuyến nghị… của giới nhân sĩ, tranh đấu… gửi đến nhà cầm quyền Việt Nam mấy chục năm nay, đều để bị rơi vào quên lãng. Đó là chưa nói đến chuyện họ phản ứng ngược lại, khủng bố. Thi thoảng họ cũng bị tác động và chỉnh sửa, nhưng không đáng kể. Chính vì vậy, mục tiêu mà bản Yêu sách hướng đến nhà cầm quyền thì ít, mà cái chính là gửi gắm đến đồng bào.
Yêu sách nhằm thức tỉnh mọi người rằng sống trong mọi thời đại văn minh, thì con người cần có những quyền tối thiểu nào, và hôm nay chúng ta đã có những cái gì? Đây là cơ hội để so sánh 100 năm qua ở Việt Nam, quyền con người đang tiến lên hay thụt lùi? Đồng thời bản Yêu sách này cũng nhắm đến các quốc gia đang có mối quan hệ với Việt Nam để nói cho họ rõ hiện trạng nhân quyền ở Việt Nam hiện nay ở mức độ nào. Nếu có thiện chí với người dân Việt Nam, các quốc gia đó sẽ góp phần tác động với nhà cầm quyền.

Có tín hiệu khá mới mẻ trong bản Yêu sách 2019. Đó nơi là văn bản này hướng tới nhà cầm quyền không nhằm rõ là gửi cho ai, sau đó lại là nhằm đến nhân dân Việt Nam và Liên Hợp Quốc. Theo ông, sự thể hiện này có ngụ ý gì?
Bản Yêu sách của nhóm Ngũ Long là gửi đến nhà cầ quyền Pháp, hội nghị Versailles, để nói lên nguyện vọng của người dân xứ Đông Dương và người An Nam. Những người khởi xướng và cùng ký bản Yêu sách sau 100 năm này, nghĩ rằng mọi thứ nếu có lạc quan thì cũng không cải thiện nhanh được, có thể nhiều tháng, nhiều năm. Do đó, bản Yêu sách không đề tên ai cụ thể mà chỉ gửi chung đến những người giữ các cương vị trong bộ máy nhà nước Cộng sản Việt Nam thôi. Nhà cầm quyền ở giai đoạn nào thì cũng cần nhìn vào bản Yêu sách này.
Còn về nơi đến có cả Liên Hợp Quốc, đó là một hiện trạng đau lòng của người Việt Nam. Lẽ ra chuyện của người Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết, nhưng hiện thức rất khó khăn. Sau hàng chục năm dùng đến các biện pháp bưng bít thông tin, khủng bố, bộ máy công an trị… rất nhiều người chỉ dùng ngòi bút, suy nghĩ của mình lên tiếng chỉ mong nhân dân mình đỡ khổ thôi cũng đã phải ngồi tù. Những người tranh đấu cho quyền lợi người dân luôn dùng hết sức mình nhưng cũng tận dụng mọi khả năng yểm trợ từ quốc tế. Nhận định về tiêu đề nơi đến của Yêu sách, theo cách hiểu của tôi là như vậy.

Sự mới mẻ đó có thể dễ dàng nhìn thấy, nhưng nó cũng tạo thêm các luồng dư luận ngay sau khi Yêu sách 2019 ra mắt. Đã có những bình luận lo ngại rằng việc đặt ra yêu sách như vậy với Hà Nội, là có ý phủ nhận tính chính danh của hệ thống cầm quyền, và thậm chí là thách thức quyền cai trị?
Bản Yêu sách này không xuất phát từ một hệ thống hay đảng phái đối lập nào, mà chỉ là của những người đứng trong hàng ngũ nhân dân. Chính bản Yêu sách năm 1919 cũng nằm trong một tư thế như vậy. Đây là ý nguyện của nhân dân.
Có là một kiểu thách thức với nhà cầm quyền hay không? Tôi nghĩ mọi thứ vẫn ở mức ôn hòa nhất, đặc biệt gợi nhớ lại lịch sử có liên quan đến nhà cầm quyền.
Bản Yêu sách 2019 chỉ dựa vào những gì của 100 năm trước mà thanh niên Nguyễn Ái Quốc được nhóm Ngũ Long soạn thảo và nhờ mang đi đến hội nghị Versailles. Mà Nguyễn Ái Quốc được coi là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Giới nhân sĩ trí thức, tranh đấu muốn giới thiệu sự thiện chí của mình trong việc nêu lại những tiêu chí mà hoàn toàn không có gì khác biệt với bản Yêu sách 1919, do Nguyễn Ái Quốc phát đi.
Đọc bản Yêu sách 2019, ai cũng hiểu và tự hỏi rằng vì sao 100 năm rồi mà vẫn phải lặp lại bản Yêu sách 8 điểm – mà về cơ bản thì gần như hoàn toàn giống nhau. Sự nhắc lại này muốn nhấn mạnh rằng 100 năm qua, các quyền cơ bản của con người trên đất nước vẫn chưa được đáp ứng. Thậm chí có những mặt còn tệ hại hơn.
Cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ, tiến bộ xã hội nhằm xây dựng một nước Việt cường thịnh vẫn là cuộc đấu tranh chung của người Việt Nam yêu nước thương nòi, cho đến bây giờ. Tôi nghĩ ở đây không có bất kỳ sự thách thức nào. Tuy vậy, về phía những người ngồi trong guồng máy lãnh đạo của Nhà nước Cộng sản Việt Nam ắt cũng có thể nhột nhạt vì đây là câu chuyện liên đới với chính lãnh tụ sáng lập đảng. Không có lý do gì mà những người được coi là hậu duệ của Nguyễn Ái Quốc lại từ chối đáp ứng.

Nhưng đó là bản Yêu sách 1919 là để đối với bọn cai trị và đô hộ… khi đem một chủ nghĩa ngoại lai vào áp đặt lên lưng nhân dân và đất nước Việt Nam. Còn bây giờ Việt Nam đã là một quốc gia độc lập, và thậm chí tuyên bố mới đây của đại diện Việt Nam trước kỳ Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát Toàn cầu (UPR) của Liên Hợp Quốc là đã thực hiện được đến 96% các hạng mục về nhân quyền….?
Từ lâu, Việt Nam được coi là một quốc gia độc lập, nhưng tôi nghĩ đó chỉ là độc lập trên danh nghĩa thôi.
Trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, mọi quyết sách trong cuộc chiến, rõ ràng không phải đến từ Hà Nội hay Sài Gòn, mà xuất phát từ Moscow, Bắc Kinh hay Washington. Việt Nam lúc đó chỉ là một quân cờ nhỏ trên bàn cờ quốc tế. Người Việt trở thành quân cờ trong tay kẻ khác.
Còn sau hội nghị Thành Đô (1990), tôi để ý thấy rõ là cứ trước mọi kỳ đại hội Đảng, là có phải có phái đoàn của Việt Nam sang xin ý kiến của Trung Quốc. Đại hội xong, nhân sự yên chỗ, thì lại có đoàn sang Bắc Kinh để báo cáo. Vậy thì độc lập ở chỗ nào? Không chỉ vậy, chẳng hạn như vụ Bauxite Tây Nguyên cũng là một ví dụ. Hơn 200 trí thức lớn của Việt Nam viết thư kiến nghị, can ngăn nhà cầm quyền về môi trường, về an ninh quốc phòng… nhưng họ vẫn bất chấp. Cho đến nay thì hậu quả tai hại khôn lường, mà tất cả chỉ vì muốn cung phụng cho Trung Quốc.  
Nhiều người sợ rằng Trung Quốc mạnh lên, không thuận ý thì sẽ xảy ra chiến tranh như năm 1979. Thế nhưng điều đó không còn cần thiết, vì Bắc Kinh nắm được ngoại giao, tác động được cá nhân hay nội bộ thì muốn lái đi đâu thì lái. Do đó cần đặt dấu hỏi là chúng ta có thật sự độc lập hay không?
Còn về nhân quyền, thời Pháp có những thứ bóp nghẹt dân chủ. Nhưng ít nhất vẫn còn báo chí đối lập hay độc lập. Mặt trận Bình dân (1936-1939) hình thành, ông Trường Chinh nói và nghiên cứu về chủ nghĩa Marx, người Pháp để cho tự do. Còn bây giờ thì báo chí chỉ cần có bài không hài lòng ai đó, là bị dẹp ngay. Mọi thứ còn nghiệt ngã hơn thời thực dân rất nhiều.
Với những gì đã thấy, đã trải qua, tôi nghĩ việc đưa ra bản Yêu sách 2019 là cấp bách và cần thiết, chứ không thách thức hay đối đầu với ai cả.

Tuấn Khanh (ghi)





Sunday, December 23, 2018

Luật sư Võ An Đôn "Thất bại, để phơi bày"



Luật sư Võ An Đôn nói sau khi ông phát đi đơn khởi kiện ông Lê Thành Long, Bộ trưởng Tư pháp, yêu cầu Tòa án tỉnh Phú Yên hủy bỏ quyết định giải quyết khiếu nại và trả lại quyền hành nghề luật sư cho ông vào ngày 4/12 vừa rồi, mọi thứ vẫn lặng như tờ. Mặc dù theo luật, ông đã phải nhận được câu trả lời.
Việc khởi kiện của luật sư Võ An Đôn dấy lên 2 chiều dư luận: một là chẳng được gì và chỉ thêm hại thân, nhưng ở phía khác thì tin rằng hành động của ông sẽ gợi ý nhiều hơn về tư cách và hành động của giới luật sư, lâu nay vốn vẫn bị coi là những người thường xuyên bị tước đi sức mạnh nghề nghiệp trong chế độ độc tài.
Từ Phú Yên, luật sư Võ An Đôn cho biết ông vẫn chờ một phiên tòa của mình, và biết rõ sẽ là người thua cuộc, nhưng lại là người chiến thắng trong việc phơi bày tất cả.

Với những gì đã diễn ra, luật sư nghĩ rằng phía Bộ Tư có đủ lý lẽ để bác bỏ mọi yêu cầu khiếu nại của mình không?
Trong đơn khiếu nại, tôi có yêu cầu Bộ Tư Pháp làm rõ những gì mà tôi bị kết tội. Chẳng hạn tôi yêu cầu xác định câu nói nào, nội dung nào là tôi tuyên truyền hay nói xấu Nhà nước, Đảng hay giới luật sư. Thậm chí tôi còn đề nghị cách làm rõ những điều tôi nói, chẳng hạn như về việc chạy án thì cứ đến các văn phòng luật sư điều tra các sự việc đó thì sẽ ra ngay. Bên cạnh đó, báo chí Nhà nước cũng hay đăng các vụ luật sư chạy án như một ví dụ rất rõ. Tuy nhiên những yêu cầu của tôi vẫn không được làm rõ là tôi sai cụ thể như thế nào, họ vẫn im lặng, vì vậy tôi không đồng ý.

Nhưng cho đến nay, phản hồi phía Bộ Tư Pháp thì sao?
Về chuyện khiếu nại, từ lúc tôi gửi đơn cho đến khi nhận được thư khẳng định kỷ luật là 6 tháng. Trong khi đó luật quy định là trong vòng 30 ngày là Bộ Tư Pháp phải trả lời bằng văn bản. Chỉ chuyện đó thôi đã quá hạn 5 tháng rồi.

Luật sư đã gửi đơn khởi kiện Bộ Tư Pháp sau sự bê trễ và sự khẳng định rất quan liêu về trường hợp của mình. Tóm tắt nội dung khởi kiện của anh luật sư là gì?
Thứ nhất, việc đoàn luật sư tỉnh Phú Yên loại tên tôi ra khỏi danh sách là không đúng, vì họ cho rằng tôi lợi dụng quyền tự do ngôn luận để nói xấu nhiều nơi nhưng họ lại không đưa ra được bằng chứng. Và dù vậy, khi khiếu nại lên Bộ Tư Pháp thì nơi này lại giữ nguyên kết quả. Theo luật của các luật sư và văn bản hướng dẫn các trường hợp xử lý các vấn đề của luật sư, thì tôi không phạm vào trường hợp nào để bị xóa tên khỏi danh sách.
Trong quy định, bị xóa tên khỏi đoàn luật sư, chẳng hạn như lừa đảo lấy tiền khách hàng, phạm tội hình sự… và đoàn luật sư tỉnh Phú Yên cũng không xác định được đặt tôi vào bất kỳ trừng hợp nào trong việc kỷ luật cả.
Nếu nói dựa vào luật pháp hoàn toàn, tôi tin tôi sẽ thắng kiện Bộ Tư Pháp 100% nhưng kết quả thường là chỉ đạo nên tôi cũng dự trù trước sự thất bại của mình.

Về phía đồng nghiệp, có ai dám ủng hộ luật sư một cách công khai không?
Tôi từ đầu đã tính đến việc nhờ sự hỗ trợ của tất cả những đồng nghiệp đã từng lên tiếng ủng hộ mình. Sau khi có tin tôi gửi đơn kiện, rất bất ngờ nhiều người đã nói sẽ cùng đồng hành với tôi khi ra tòa (chú thích: Ngày 10/12/2017, đã có hơn 100 luật sư ký thư gửi kiến nghị lên Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam, phản đối về quyết định kỷ luật luật sư Võ An Đôn. Tuy vậy, cho đến lúc này, tôi đề nghị các anh chị đó ẩn danh để chờ có quyết định ra tòa, đề phòng những trường hợp không lường trước được.
Nhưng ngay cả trong trường hợp xấu nhất là nếu bị áp lực nào đó mà những anh chị em đó không thể tham gia được, thì tôi sẽ nhờ những người dám nói lên sự thật cùng tham gia bảo vệ cho mình. Theo luật, bất kỳ ai có quyền công dân, đủ 18 tuổi đều có quyền tham gia bảo vệ người khác trước tòa, nên tôi sẽ chọn dám cất tiếng để ra tòa cùng với mình.
Lâu nay, nhiều phiên tòa diễn ra ở Việt Nam, đặc biệt là tòa về nhân quyền hay chống lại các thế lực đen tối trong xã hội… thường diễn ra bất thường như một tuồng diễn sân khấu, không có giá trị gì về công lý, luật sư hình dung phiên tòa của mình có rơi vào bối cảnh tương tự không?
Tôi cũng có hình dung trước về điều này. Đây là một phiên tòa người dân kiện cơ quan Nhà nước, và kịch bản là ở phiên tòa, nhân vật Bộ trưởng Bộ Tư Pháp sẽ không xuất hiện. Án này sẽ là án bỏ túi, và tôi sẽ thất bại.

Biết mình sẽ thất bại, nhưng luật sư vẫn đâm đơn kiện? Vậy ý nghĩa khác của chuyện này là gi?
Căn cứ vào pháp lý, tôi sẽ là người thắng. Nhưng diễn biến ở phiên tòa, tôi sẽ là người thua. Nhưng tôi vẫn khởi kiện vì muốn cho những ai quan tâm đến luật pháp ở Việt Nam có cơ hội nhìn thấy công lý là như thế nào. Chỉ cần theo dõi, và nhận ra sự thất bại của tôi là vì lý do gì, cũng là một cách để thấy hiện thực trên đất nước này ra sao.
Kế đến, vụ kiện này, tôi muốn tạo thành một tiền lệ để các đoàn luật sư và Liên đoàn luật sư Việt Nam khi muốn tước chứng chỉ hành nghề của một người nào đó, đều phải cân nhắc và đúng luật chứ không thể hành động đơn giản theo chỉ đạo.  

Để nói một lời với cộng đồng những người đang theo dõi câu chuyện của luật sư, thì đó là lời nhắn như thế nào?
Tôi mong mọi người quan sát tường tận sự việc của tôi, để nhìn thấy rõ mọi thứ. Theo dõi tôi là bảo vệ tôi. Và tôi có thất bại thì cũng là lúc để mọi người nhìn thấy thêm nhiều điều khác rõ ràng về luật pháp và tòa án ở Việt Nam.

Tuesday, December 11, 2018

Về công văn cấm học sinh vui Giáng sinh 2018: “Họ quyết tâm không buông tha cho người dân được tự do”



Mùa Giáng Sinh năm 2018 sẽ thật khó quên với câu chuyện các trường học ở Sài Gòn đột nhiên nhận được công văn yêu cầu không được tổ chức hay tham gia vui chơi Lễ Giáng Sinh. Dù công văn này bị rút lại ngay trong ngày 6/12, vài tiếng đồng hồ khi bị tiết lộ trên mạng xã hội, nhưng có cái gì đó bất an vẫn lưu lại trong lòng hàng triệu người về một đất nước hãnh tiến “có bao giờ được như thế này đâu?”
Không có quan chức nào phải chịu trách nhiệm về chủ trương gây bất an đó. Không có lời nào giải thích từ phía nhà cầm quyền, rằng vì sao tự do tín ngưỡng là cái gì đó rất mong manh trong nắm tay thô lậu của những kẻ có thể ra quyết định mà không cần nhớ đến Hiến pháp Việt Nam đã nói gì về quyền tự do cơ bản của con người, bao gồm tự do tín ngưỡng.
Câu chuyện Công văn số 1054/GDDT, ký tên Lê Thanh Hải, Phó Phòng Giáo dục và Đào tạo Huyện Nhà Bè chỉ là một ví dụ nhỏ về vấn đề Công giáo và nhà cầm quyền. Nhưng nó là một điểm tựa để tìm về những điều bất an nhiều cấp độ, vốn cũng đang diễn ra với Tin Lành Mennonite, Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Hòa Hảo Thuần túy, Cao Đài Chơn truyền… trên đất nước Việt Nam, đặc biệt qua cuộc trò chuyện với linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Dòng Chúa Cứu thế tại Sài Gòn.

Những trò tiểu xảo gây bất an trong mùa vui Giáng Sinh, tạo nên những cảm giác hiềm khích hay dè chừng với Công giáo như kiểu công văn huyện Nhà Bè không cho các trường học tham gia vui chơi lễ Giáng Sinh, vẫn diễn ra hàng năm, theo nhiều cách ở Việt Nam. Hà Nội đang muốn gì khi một mặt vẫn niềm nở với Tòa thánh Vatican, khoe khoang các bước cải thiện về tự do tín ngưỡng nhưng một mặt vẫn tạo căng thẳng như vậy?
Nói đến chữ tự do tôn giáo, thì nhà nước CSVN không bao giờ muốn cho người dân hiểu theo cái nghĩa bình thường, mà phải hiểu tự do là thứ họ ban cho, họ cho phép. Với CSVN thì tự do không có nghĩa là quyền hiển nhiên của một con người phải được có.
Do đó, tự do tôn giáo đối với họ, kể từ miền Bắc năm 1954 và miền Nam từ 1975 đến nay, họ không bao giờ có sự thay đổi. Khi chúng tôi làm việc với quan chức, thì họ luôn nói đi nói lại cái gọi là chính sách tôn giáo nhất quán – tức không có sự thay đổi nào hết. Dù họ có khoe là có thay đổi, thì rồi cũng nằm trong chính sách nhất quán. Một mặt thì họ vẫn giao tiếp với quốc tế, với Tòa thánh Vatican và một mặt thì luôn tạo ra sự căng thẳng về đời sống tôn giáo trong nước, nguồn gốc sâu xa là như vậy. Họ không muốn người dân tự do.
Về mặt xã hội mà nói, đến giờ phút này, chỉ còn những đảng viên ngoan ngoãn thì mới nghe lời lãnh đạo, chứ đảng viên trí thức, đảng viên có lương tri thì đã không hoàn toàn như vậy. Đảng không điều khiển được chính nhân sự của họ, trong khi họ nhìn về Giáo hội Công giáo và nghĩ rằng giáo hội có thể kiểm soát được giáo dân. Thậm chí còn có ý nghĩa rằng Giáo hội Công giáo đối lập và cạnh tranh với họ về mặt quyền lực. Quan niệm sai lầm đó dẫn đến những thù hằn vô cớ.
Tổ chức tôn giáo nếu có can thiệp vào xã hội thì chỉ để mong xã hội tốt hơn. Chứ tổ chức tôn giáo, ở đây nói rõ là Công giáo, chẳng bao giờ có ý giành chính phủ với chế độ CS.
Về vấn đề đã xảy ra, có thể thấy rõ, thứ nhất là họ mang nặng sai lầm quan niệm về tổ chức tôn giáo và thứ hai là vẫn quyết tâm không buông tha cho người dân được tự do.
Nhưng theo Cha, đây là hành động ngu xuẩn của một quan chức đơn lẻ nhằm tạo thành tích, hay là một phép thử thí điểm về sự phản ứng từ Nhà nước, đối với người Công giáo Việt Nam? Nhất là trong bối cảnh Công giáo và người Công giáo bị nhà cầm quyền coi là “khó ưa” về việc tích cực tham gia các hoạt động mang tính công bằng xã hội, nhân quyền, môi trường…?
Theo văn bản ghi rõ, là lệnh cấm tổ chức lễ Noel, trang trí… là thực hiện theo chỉ đạo. Tức đây không phải là việc làm tùy ý, mà làm theo chỉ đạo. Tôi cũng nhận được cái tin đích danh một trường ở quận 11, cũng nhận được thông báo như vậy, và họ đã ngoan ngoãn chấp nhận. Như vậy thì không chỉ có huyện Nhà Bè, mà còn những nơi khác nữa mà các văn bản chúng ta chưa được tiếp cận. Những việc này không có cải thiện, chẳng hạn như việc thường xuyên xếp ngày thi của học sinh rơi vào ngày 24-25 tháng 12 cũng là cách muốn người không còn nhớ đến tôn giáo nữa.
Điều đáng nói nhất, là ngay sau phản ứng nhanh của người dân nói chung trên mạng xã hội về việc cấm đoán vui chơi Giáng Sinh, nhà cầm quyền đã rút lại quyết định này. Nhưng cũng cùng giai đoạn này, trên cổng thông tin của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam (tổ chức do Nhà nước thiết lập và kiểm soát) lại chỉ trích ngày lễ Noel của người Việt Nam, nói rằng đó là “một hình thức truyền bá tôn giáo bị cấm được ghi trong Luật Giáo Dục…” Có cái gì đó vừa trơ trẽn và thô bỉ, mà bất kỳ ai có chút hiểu biết về Phật giáo đều cảm thấy bất thường. Thậm chí thấy rõ những nghi vấn chia rẽ tôn giáo từ hệ thống thế quyền. Cha nghĩ sao về điều này?
Thủ đoạn chia rẽ tôn giáo là cách mà CS đã sử dụng từ rất lâu rồi. Thời gian gần đây thì họ mạnh tay hơn do gần như đã điều khiển được 100% Giáo hội Phật giáo Việt Nam do họ lập ra. Nắm truyền thông thì họ muốn đưa vấn đề gì ra thì cứ đưa thôi.
Còn Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thì hiện nay cũng có những vấn đề tế nhị trong nội bộ, có hai cộng đồng, nên không tạo thành được mạch chung. Chính giới Phật tử cũng chông chênh trong việc đón nhận việc làm thế nào cho đúng.
Trong vấn đề mà anh đặt ra thì họ dùng bàn tay cộng sản trong hệ thống Phật giáo Việt Nam để nói những điều sai rất căn bản về Công giáo. Mà thật ra họ đã làm như vậy từ nhiều năm trước chứ không phải mới đây.
Họ gây hiềm khích bằng cách nói Công giáo là ngoại lai, nhưng ngay chính Phật giáo cũng là tín ngưỡng du nhập. Nhưng các đạo sinh ra trong nước như Cao Đài, Hòa Hảo cũng bị đánh te tua. Nói chung đó là thủ đoạn chia rẽ tôn giáo của chính mấy anh CS. Và dù bị lợi dụng thế nào, từ tên ai, cũng cần phải hiểu đó là thủ đoạn của Cộng sản.

Tuấn Khanh (ghi)

Sunday, November 25, 2018

Vương quốc bóng đêm


Cảm giác bất lực nhất thời trước nỗi đau của người khác, là một cảm giác ghê sợ và xoáy nhói vào trong suy nghĩ không thôi. Câu chuyện của tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức mới đây, về việc ông bị ngộ độc trong nhà tù, là một ví dụ.
Theo lời kể, gia đình của ông Thức choáng váng khi nghe ông mô tả về việc ông có biểu hiện ngộ độc, nhưng được chữa trị sơ sài, thậm chí khi ông Thức muốn áp dụng các biện pháp muốn tự bảo vệ mình như chọn ăn mì gói và đồ đóng kín sẳn, thì cai tù phản ứng lạ thường là nói sẽ không cấp nước sôi.
Điềm tĩnh và thậm chí có phần ngạo nghễ, ông Thức nói lại rằng “vậy thì ăn mì sống cũng được”. 
Dĩ nhiên, đó là bản lĩnh của người trong cuộc, nhưng với người bên ngoài, thì nghe quặn đau. Bởi tự do của một con người bị tước đoạt, giờ lại nghe đâu cuộc sống cũng dần bị cấu xé từng phần, theo kiểu vô luân nhất mà hiện thực Việt Nam được biết.
Lần đầu tiên, từ trại giam Nghệ An ra sân bay, gia đình ông Thức đã viết thư khẩn cho bạn bè, người quen. Ngay trong đêm, khi máy bay chưa cất cánh về Sài Gòn, thư đã đến với từng người. Có nhiều người đã không ngủ được. Những lời nhắn từ các luật sư, bác sĩ, giới truyền thông… liên tục qua lại với nhau trong đêm ấy.
“Sau khi đọc bài hát của ảnh tặng Ba, ảnh nói ngay là cách đây 4 ngày (tức Thứ Ba), lúc 5h15, thức dậy ảnh thấy chao đảo, đo huyết áp rất cao: 150/110, mồ hôi ra rất nhiều, uống nước thì bị ộc ra, ộc ra có lẫn một vài sợi máu tươi. Nằm một lát thì ộc ra rất nhiều mật vàng, mật xanh, chao đảo, nghiêng ngã, quay cuồng. Y tế trại giam cho uống 2 viên thuốc thì ộc ra hết. Họ nói "bị tuần hoàn não".
Đến 7h, huyết áp trở lại bình thường và có thể ăn sáng, ăn cơm bình thường nhưng cả ngày hôm đó mệt lắm. Đếm hôm sau thì trở lại bình thường đến hôm nay.
Anh Thức nói nhờ bác sĩ xem như vậy là bị gì.
Anh Thức dặn tháng sau gia đình đi thăm vào ngày 8/12 nhưng nếu bác sĩ thấy tình hình sức khoẻ của ảnh gấp thì ra thăm ảnh ngày 1/12.
Anh Thức nói bây giờ ảnh cảm thấy không an toàn, không dám ăn cơm trại, chỉ ăn mì gói cầm cự kêu cứu nhân dân, bạn bè quốc tế. Nếu trại không phát nước sôi thì ăn mì sống.
Anh Thức cho biết bây giờ trại giam gây khó khăn cho ảnh rất nhiều, trái ngược hẳn trước đây, họ chỉ cần nói "lãnh đạo quyết định, không cần căn cứ gì hết" để trả lời các phản đối, yêu cầu căn cứ luật của anh Thức.
Họ hạn chế và không cho anh Thức gửi và nhận thư. Họ không cho gửi thư bằng phát chuyển nhanh và nói với anh Thức sắp tới họ sẽ xem xét không cấp nước sôi, không cho sử dụng đèn pin, máy đo huyết áp, máy đo đường huyết. Anh Thức hỏi căn cứ thì họ không trả lời. "Những gì tốt đẹp trước đây đã mất hết rồi, không còn gì nữa", anh Thức nói vậy.
Về thư yêu cầu luật sư Trần Vũ Hải lo cho vụ án của ảnh và đề nghị luật sư vào gặp, anh Thức nói là sẽ làm nhưng bây giờ thư từ nó chậm lắm (trại giam làm chậm duyện hoặc không gửi đi)” (trích)
Có chi tiết đáng chú ý, là khi ông Thức kể về chuyện ông bị ngộ độc, các nhân viên của trại giam để yên cho ông nói, như một cách mượn ông Thức truyền đạt sự kinh sợ cho gia đình. Nhưng khi bàn về các vấn đề luật pháp, và việc pháp lý được giao cho luật sư tìm hiểu thì họ lập tức ngăn cản. Cũng vậy, mọi đơn từ hợp pháp của ông Thức gửi cho các cơ quan công quyền và luật sư đều bị ách tắc, cản trở.
Nhà tù ở Việt Nam lạ lùng như vậy đó. Nó không khác gì kiểu vương quốc của bóng đêm, mọi thứ được điều khiển bằng ý chí của một cá nhân hay một nhóm người nào đó, mà cái ác và sự bất lương được lấy làm căn bản. Luật pháp chỉ là thứ để giới thiệu về cái bóng của sự văn minh, được nhà cầm quyền luôn trình diễn sự rượt đuổi.
Tương tự như bộ phim Monster Inc của trẻ con – về những giống loài chỉ có thể tồn tại và lớn lên bằng năng lượng tạo ra từ sự sợ hãi của kẻ khác - nhà tù Việt Nam cũng thích tạo ra sợ hãi như vậy, không chỉ cho người bị giam giữ, mà còn nhắm đến cả người thân của họ ở bên ngoài.
Chúng ta vẫn nghe chuyện nhà tù Việt Nam ngăn chận không cho tù nhân gặp người nhà trong nhiều tháng, không cho gọi điện thoại về, cho tù thường phạm đe dọa, đánh đập, chuyển trại giam thật xa, heo hút để làm khổ người bên ngoài, khủng bố tinh thần người bị giam, đau bệnh không được chăm sóc đúng mức cần thiết… Những điều đó, ắt phải có mục đích tạo ra cảm giác bất lực và đau đớn cho cả gia đình của người bị giam hãm. Vương quốc bóng đêm ấy không chỉ dành cho người tù, mà nó tạo nên sự thì thầm sợ hãi và đau đớn cho cả một xã hội quen sống với nhân ái và luật pháp.
Nhưng đừng quên, trong đau đớn ấy, con người còn biết nuôi dưỡng cả sự căm giận và sự nhận thức về đổi thay.
Lấy sợ hãi làm nền tảng cho sự tồn tại cho mình, thế kỷ này, đó là suy nghĩ vô cùng ấu trĩ. Hãy chạm vào nhận thức, về một nền văn minh phải đi tới và mọi sự tồn tại của các chế độ đều có giới hạn nhất định, thì bất kỳ ai cũng có thể nhận ra sự ấu trĩ đang sụp đổ trong vương quốc, mà bóng đêm không bao giờ là vĩnh cửu. 

Monday, November 19, 2018

Đánh tù nhân trong nhà giam: Vì sao Lưu Văn Vịnh phải lên tiếng thay cho Nguyễn Văn Đức Độ?


Trong lời tường thuật từ gia đình của các tù nhân lương tâm (TNLT) Lưu Văn Vịnh và Nguyễn Văn Đức Độ thì từ ngày 5/10/2018, sau khi bị 3 tù cùng phòng đánh đập đến mức bất tỉnh, anh Nguyễn Văn Đức Độ vẫn không kể gì cho gia đình. Bị đánh nhiều quá, anh Độ đạp cửa phòng, gọi cán bộ đến can thiệp và xin đổi sang phòng giam khác nhưng vẫn bị từ chối. Anh Độ lại tiếp tục bị đánh đến mức phải đưa đi bệnh xá. Mãi đến ngày 15/11/2018, anh Lưu Văn Vịnh hay chuyện, báo cho gia đình của anh, và nhắn rằng phải lên tiếng cho anh Độ, thì lúc đó mọi người mới biết.
  Tình trạng TNLT bị đánh trong trại giam xảy ra rất nhiều. Nhưng phần lớn các TNLT đều không có những phản ứng tức thì. Chẳng hạn như TNLT Hoàng Bình, anh bị đánh đến bầm hai mắt nhưng không nói gì, ngay cả khi gặp gia đình, đến cả tháng sau gia đình mới biết. Nguyễn Viết Dũng và Nguyễn Văn Hóa cũng vậy, hơn tháng sau gia đình mới được nghe họ kể lại. Thậm chí nhạc sĩ Việt Khang mãi đến khi mãn hạn tù, gia đình mới biết những tháng đầu anh ở trong trại cũng bị vô cớ hành hung. Khang khi bị giam chung với những tù nhân hung dữ và tìm cách gây gỗ, anh đã biết mọi chuyện rồi sẽ rất xấu nên luôn quay mặt vào tường đọc kinh thầm trong suy nghĩ, tránh va chạm. Ấy vậy mà nửa đêm, anh vẫn bị một tù nhân nhảy tới đạp đập đầu vào tường, mũi đầy máu. Tù nhân ấy vừa chửi thề vừa nói Khang đọc kinh làm phiền. Trong chuyến thăm TNLT Trần Thị Nga mới đây ở trại Gia Trung, khi nói chuyện với ông Lương Dân Lý về đơn khiếu nại đang có những lời đe dọa hành hung, thậm chí đòi giết chết chị Trần Thị Nga trong trại, cán bộ quản giáo đã nói rằng không có chuyện để cho tù thường phạm đánh đập hay đe dọa Trần Thị Nga. Nhưng khi ông Lương Dân Lý hỏi lại rằng “Vậy các anh nghĩ rằng Trần Thị Nga có thể tự bịa ra chuyện này sao?”, khi ấy các cán bộ mới im lặng, không nói tiếp nữa. Nhưng vì sao có rất nhiều trường hợp TNLT bị tù thường phạm đánh đập nhưng họ không lên tiếng ngay để tố cáo, mà chỉ kể lại như chuyện đã rồi? Ngoài các trường hợp như TNLT Đỗ Thị Minh Hạnh, Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh… là lên tiếng ngay khi có sự cố, nhưng rất nhiều người thì cho qua. TNLT Hoàng Bình khi kể lại với gia đình, anh nói rằng biết rõ những tù thường phạm này gây hấn và đánh anh, vì có sự xếp đặt của cán bộ. Không phải vì sợ hãi, mà Hoàng Bình không muốn gia đình quá lo lắng, cũng như anh biết qua thời gian, những tù thường phạm này cũng sẽ thay đổi thái độ vì thật sự giữa anh và họ thật sự không có thù oán gì. Nhiều TNLT cũng giống như Hoàng Bình, đều thường im lặng vì không muốn gia đình mình sợ hãi. Và kế đến họ không mang nặng thù hằn, thậm chí còn trở thành người trò chuyện và hướng dẫn cho những người cố tình gây hấn với mình. Thậm chí có trường hợp khi hiểu những tù thường phạm đó cùng quẩn và khó khăn, họ cũng chia sẻ thức ăn, đồ dùng thêm cho những người đó. Trường hợp TNLT Nguyễn Tiến Trung (chịu án từ 2010-2014), khi chứng kiến anh tập võ, các tù thường phạm đến nhờ anh dạy, và cũng từ đó mà họ tiết lộ về những chuyện họ được dặn phải làm, bao gồm chuyện phải đánh “dằn mặt” Trần Vũ Anh Bình, chẳng hạn. Câu chuyện về việc đánh đập, sách nhiễu TNLT Nguyễn Văn Đức Độ, Lưu Văn Vịnh vào tháng 11/2018, qua lời kể của chị Lê Thị Thập, vợ anh Lưu Văn Vịnh, dưới đây là một ví dụ.

Friday, November 9, 2018

Chánh trị sự Hứa Phi: "Chúng tôi cầu nguyện cho những kẻ đã bách hại mình"


Chánh trị sự Hứa Phi, sinh năm 1950, nay đã bước vào tuổi thất thập cổ lai hy. Ông sống ở một vùng heo hút tại Lâm Đồng để giữ lòng với đạo Cao Đài chân truyền và giữ đời với tinh thần của con dân nước Việt. Thế nhưng, những điều đơn giản ấy có vẻ như vẫn không thể đơn giản được trong thời buổi hôm nay. Rất nhiều lần ông bị côn đồ thường phục xông vào nhà đập phá. Bản thân ông nhiều lần bị đánh gãy tay, hôn mê… đến mức phải đi cấp cứu. Công an địa phương thì luôn là người quan sát và im lặng khi sự việc xảy ra.
Mới đây, sau cuộc gặp mặt với Đoàn công tác của Văn phòng Tự do Tôn giáo Quốc tế, thuộc Cục Dân chủ – Nhân quyền – Lao động, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, trở về nhà, Chánh trị sự Hứa Phi ngỡ ngàng nhìn thấy nhà cửa, tài sản của mình bị phóng hỏa, tan hoang. Chuyện tưởng chừng như chỉ có ở một vùng đất man rợ nào đó, ngoài nền văn minh của loài người.
Ông đã dành ít thời gian để nói về sự kiện này.
-------------------
- Được biết nhà ông ở Lâm Đồng bất ngờ bị khủng bố, phóng hỏa, nhiều tài sản bị thiêu rụi trong ngày qua sau khi ông đi gặp phái đoàn về tự do tôn giáo của Hoa Kỳ trở về, xin ông cho biết thêm về tình hình này.

Kính thưa quý vị, tôi là Chánh trị sự Hứa Phi, trưởng ban đại diện khối Nhơn Sanh tức bên đấu tranh cho đạo Cao Đài, cũng là đồng chủ tịch Hội Đồng Liên Tôn Quốc Nội gồm 5 tôn giáo chính thống tại Việt Nam. Mục đích của chúng tôi là đấu tranh cho dân chủ nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ và tự do tôn giáo.
Thường thì chúng tôi vẫn được các cơ quan quốc tế mời thay mặt cho giới tôn giáo nói chung để họ tìm hiểu về tình hình tự do tôn giáo, sinh hoạt của chúng tôi tại Việt Nam như thế nào. Và lúc nào chúng tôi đi gặp những cơ quan này, cũng gặp sự ngăn cản của công an CSVN. Đơn cử là vào tháng 1/2018, khi đi gặp phái đoàn về Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ, tôi cũng bị ngăn cản. Tháng 4/2018, khi Tổng lãnh sự quán của Úc mời gặp thì tôi cũng bị công an chặn đường, đánh tôi trực tiếp ngay tại ngôi nhà mà hôm nay bị cháy.
Sau đó, tôi bị đánh tiếp một lần nữa khi tiếp xúc với phái đoàn của Liên Hiệp Châu Âu, gồm Anh, Ý, Đức, Hà Lan, Pháp ở chùa Giác Hoa, Quận Bình Thạnh, Sài Gòn. Khi quay về tôi bị đánh thừa chết thiếu sống.
Hôm 5/11/2018, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách về tự do tôn giáo, nhân quyền, lao động đến gặp Hội đồng Liên Tôn tại Sài Gòn. Khi được lời mời, tôi đã đi trước từ mùng 2, vì tôi biết lúc nào tôi cũng bị ngăn cản. Ngày 8/11, tôi quay lại nhà, vào thăm vườn cà phê của mình, thì thấy căn nhà trong vườn dành cho công nhân, chứa các máy móc nông cụ đều tan hoang hết. Mọi phòng và vật dụng đều bị cháy hết. May thay, bồn nước ở trên cao bị cháy ống dẫn nên xả nước xuống, vì vậy mà vài thứ vẫn còn lại. Nếu không có bồn nước đó, mọi thứ đã thành tro.
Xin nói thêm là tôi vẫn phải làm việc hàng ngày để duy trì cuộc sống của mình và gia đình cũng phục vụ cho việc sinh hoạt đạo, vì các cơ sở phúc lợi của Cao Đài, chính quyền Cộng sản đã lấy hết rồi.

Nhưng kẻ thủ ác có thể là ai? Ông có thể xác định được không?
Tôi khẳng định rằng, việc này do công an CSVN làm. Vì người nhà của tôi kể lại rằng vào sáng ngày 4/11 vào lúc 10g sáng, có hai anh công an của Lâm Đồng, tên là Thịnh và Minh vào nhà tìm tôi, xem đang ở đâu. Những người này không thấy nên đi ra, 10 phút sau thì họ cho đóng một cái chốt ngay trước của nhà, canh gác 24/24. Họ canh gác một ngày một đêm nhưng không ngăn được tôi, nên họ tức giận và đốt căn nhà trong vườn cà phê của tôi.
Vào năm 2017, khi tôi đi gặp Đại sứ Lưu động Tự do Tôn giáo của Hoa Kỳ, ở nhà cũng đã bị đập phá mọi thứ từ đường dây, ống nước, cơ sở sản xuất, nhà cửa… Năm nay thì họ đốt nhà.
Tôi khẳng định rằng tất cả những chuyện này đều do công an CSVN cho người trá hình, gọi là côn đồ đến phá hoại nhà tôi.

Thưa ông, nếu có lời bàn rằng chuyện khủng bố như vậy, là tư thù cá nhân, chứ không phải là chuyện tự do tín ngưỡng hay riêng đạo Cao Đài, thì ông nghĩ sao?
Tôi bị nhà cầm quyền CSVN ghép vào thành phần gọi là bất đồng chính kiến. Vì tôi là người quyết tranh đấu cho tự do tôn giáo, và điều phải luôn đi kèm theo là dân chủ và nhân quyền, và toàn vẹn lãnh thổ. Hội Đồng Liên Tôn hình thành cũng vì mục đích đó. Vì vậy, mọi thành viên của Hội Đồng Liên Tôn đều nằm trong tầm ngắm của chế độ này. Riêng cá nhân tôi, là người đại diện khối Nhơn Sanh Cao Đài, đối lập với Hội đồng Chưởng quản Cao Đài Quốc doanh, mà tôi thường gọi là Cao Đài Việt Cộng. Tôi là người lên tiếng đòi chính quyền CSVN phải trả lời về việc đã lấy hơn 200 thánh thất và đền thờ Phật Mẫu của chúng tôi. Nói cụ thể, tôi là người đấu tranh cho đạo và cho đời mà chính quyền không thích.

Ông nhận định thế nào về việc hai khối tín ngưỡng tự do là Cao Đài và Hòa Hảo luôn gặp khó khăn gay gắt trong sinh hoạt, từ tập thể đến cá nhân?
Nói chung 5 tôn giáo ở Việt Nam, với các phía giữ quyền tự do tín ngưỡng của mình thì đều bị bách hại hết. Nếu có tôn giáo nào giữ được chân trong Mặt trận Tổ quốc thì người có dè dặt một chút, do nằm trong sự kiểm soát của họ. Riêng Cao Đài và Hòa Hảo là hai tôn giáo hình thành cách đây gần 100 năm thôi, mà hết 70 năm là phải sống dưới chế độ cộng sản rồi, do vậy không thể phát dương rộng rãi. Phật giáo và Công giáo thì lâu đời và có nhiều cơ sở ở nước ngoài, luôn theo dõi và hiệp thông lên tiếng. Đó là tôi nói về phía nhánh gìn giữ quyền tự do tín ngưỡng của mình, và họ luôn bị đàn áp cách này hay cách khác. Nhưng Cao Đài, Hòa Hảo và Tin Lành độc lập thì yếu thế hơn nên bị đàn áp nhiều hơn.

Thưa ông, với những gì đã xảy ra, ông có muốn gửi một lời nhắn nào đó đến những người đang quan tâm đến tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, và cả với những người đã sách nhiễu ông không?
Chúng tôi luôn đem tình thương là giải pháp hàng đầu. Mong những tin tức này loan đi, tất cả chúng ta với tình thần đạo đức, tinh thần nhơn loại xin hãy cùng nhau vận động cho một nền tự do tôn giáo thật sự, chứ không phải là trá hình hiện nay.
Còn với những kẻ đã bách hại chúng tôi, là người có tín ngưỡng, chúng tôi cầu nguyện cho quyền năng thiêng liêng, xoay chuyển cho những người đã nhúng tay vào điều ác được thức tỉnh.
Trong cuộc đấu tranh cho đời, cho dân chủ nhân quyền, chúng tôi cũng cầu nguyện quyền năng thiêng liêng, mong những người lãnh đạo sáng suốt quay về với dân tộc, để đất nước dân tộc thoát khỏi cảnh chủ nghĩa cộng sản cai trị.
Chúng tôi sẳn lòng tha thứ cho những kẻ đã và đang bách hại chúng tôi, kêu gọi họ hãy sớm thức tỉnh về với dân tộc.

Tuấn Khanh (ghi)

Friday, November 2, 2018

Dẹp chùa An Cư: Mục đích chính chỉ để triệt hạ các cơ sở của Giáo hội Việt Nam Thống Nhất.


Chùa An Cư ở quận Sơn Trà thành Phố Đà Nẳng, có thể là một hình ảnh xót xa nối tiếp của cây chuyện cưỡng chế, đập tan như trường hợp Chùa Liên Trì ở quận 2, Thủ Thiêm, Sài Gòn.
Ngôi Chùa chỉ hơn 300m2 được nhận được lệnh cưỡng chế giải tỏa, mặc dù nhiều yêu cầu đưa ra, trong đó chỉ xin đổi lại một nơi khác để tu tập. Mục đích của Đà Nẳng, hay nói chung là chính sách của Nhà nước vô thần hiện nay tại Việt Nam là triệt hạ các cơ sở tôn giáo độc lập, đặc biệt là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Tin cho hay Văn bản cưỡng chế trước đây là từ ngày 24/9/2018, đến ngày cuối là 23/11/2018. Thông báo cưỡng chế chùa lần này là 8 giờ sáng ngày 9/11/2018.
Dưới đây là cuộc trò chuyện với hòa thượng Thích Thiện Phúc, trụ trì chùa An Cư, trước vài ngày Chùa bị cưỡng chế, cùng với sự sách nhiễu và trấn áp nhiều năm nay từ chính quyền.

  • Nhờ Thầy tóm tắt, nói rõ thêm cho mọi người đuợc biết về hoàn cảnh của Chùa An Cư hiện nay.
Từ 2003-2004, người ta đã có ý định giải tỏa co việc xây dựng nhưng thực chất, ý của họ là nhằm triệt hạ các cơ sở của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Trước đây các văn bản họ gửi đến Chùa, đều đề tên đời của Thầy chứ không đề tên đạo. Nhưng rồi bẳng đi một thời gian, do chuyện kinh tế trì trệ thế nào đó nên họ tạm yên mấy năm. Từ 2014 đến nay thì họ làm lại, mở lại chuyện giải tỏa đền bù. Họ định bồi thường là 400 triệu hơn, nhưng Thầy không chịu giải tỏa.
Trong những bức thư trước đây mà Thầy gửi cho Chủ tịch thành phố, phường quận… Thày có nói rõ là Thầy không có nhu cầu chuyển nhượng hay mua bán đất. Nếu Nhà nước muốn giải tỏa thì giao lại một mảnh đất tương đương để Thầy xây Chùa, thậm chí là Thầy tự làm cũng được, dĩ nhiên trong quá trình xây dựng thì đừng gây khó dễ. Cuối cùng Thầy cũng nói là nếu mọi thứ vẫn không thể đồng thuận được thì viêc cưỡng chế cần báo trước 15 ngày để thu dọn phần cá nhân, chứ không đặt ra yêu cầu gì nữa, vì đã yêu cầu và thiện chí đến đó không được thì thôi.

  • Chùa An Cư đã hình thành như thế nào, hiện nay sinh hoạt ra sao? Giấy tờ của Chùa có đủ hợp pháp để Thầy có thể đối thoại với chính quyền Đà Nẳng không?
Ngày xưa Thầy đi tu ở Bình Dương, Sông Bé. Nhưng sau đó thì dành dụm và mua lại đất của ông Nguyễn Văn Tỏ, người ở nơi này. Thầy mua dần 2 lần để mở rộng. Mua từ năm 1993, đến năm 1995 thì cơi cất thành Chùa và tồn tại đến nay.
Ngày xưa thì không có chuyện gì hết, đến khi họ biết được là người của Phật giáo Việt Nam Thống Nhất thì họ đàn áp, tấn công.
Hiện tại Thầy không còn một đệ tử nào ở lại hết. Tín đồ cũng lui hết. Bởi chính quyền họ cô lập, phân hóa… mục đích làm tê liệt toàn bộ, kể cả vấn đề kinh tế.

  • Chính quyền Đà Nẳng nói họ giải tỏa để phát triển đô thị, văn hóa… đã có bao giờ trong đối thoại, Thầy gợi ý với họ rằng gìn giữ và tôn tạo chùa chiền cũng là việc làm văn hóa?
Thầy chưa đặt vấn đề đó với họ, nhưng Thầy có nói rằng nếu cần làm gì tốt cho môi trường thì chúng tôi sẳn sàng ra đi, với điều kiện là phải quyết chỗ để chúng tôi sinh hoạt tín ngưỡng như cũ. Nhưng họ không trả lời. Họ cứ âm thầm làm. Thầy nói rằng nếu cần làm bệnh viện, trường học thì chúng tôi sẳn sàng nhường, chỉ xin một trăm mét đất để chúng tôi tái tạo Chùa nhưng họ cứ nín thinh. Họ không thèm nghe gì cả. Mặc dù bề mặt họ cũng lịch sự “dạ thầy” nhưng trong lòng không phải vậy.

  • Ngay vào lúc này, Chùa còn ai ở với Thầy?
Không có ai dám tới con à. Mà họ xử sự rất tệ. Kể cả những ngày gần đây, đợi Thầy đi khỏi Chùa thì họ cho người tới chụp hình. Mới hôm trước, họ cho người chạy theo vác ná thun bắn đá vào người Thầy.
Hồi năm ngoái, Thầy đi cúng cho người ta, thì lúc về họ cho 2 thanh niên chạy theo bắn đá vào lưng, vào đầu Thầy. Còn ở ngay trong Chùa thì họ cho người nhỏ keo super vào ổ khóa, quăng bả độc giết chó trong Chùa, đường trước Chùa thì họ cho người rải đinh 3 phân khắp nơi để Phật tử không dám đến nữa. Thầy trò lúc nào phải ra quét để tránh tai nạn.
Trước đây có người thì còn lo cho người ta, chứ bây giờ còn một mình Thầy cũng không lo như trước. Tình cảnh Chùa An Cư giờ đây cũng không khác nào Chùa Liên Trì ở Quận 2, Thủ Thiêm thôi con à.
Đà Nẳng chỉ còn 2 Chùa gọi là liên đới với Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, nay phá Chùa An Cư thì giờ chỉ còn lại một, là chùa bên kia do Thầy Thanh Quang quản thì lâu nay già yếu nên không có hoạt động hay làm gì nữa thì chắc không sao.

  • Bị cưỡng chế, Thầy sẽ đi đâu?
Trong lá đơn mà Thầy gửi cho Chủ tịch thành phố Đà Nẳng, chủ tịch quận… thì điều cuối cùng là nếu chính quyền thành phố này quyết tâm giải tỏa thì Thầy sẽ xin tá túc ở đâu đó. Có vài nơi Thầy có thể đi như Huế, Bình Định hay Sài Gòn để tá túc một thời gian. Mình thấp cổ bé miệng thì biết làm gì? (cười)
Ngày xưa Thầy mình bỏ ngai vàng điện ngọc mà đi, thì mình hôm nay có sá chi những lúc như vậy. Có người trách là Thầy không thuận với chính quyền nên gặp chuyện như hôm nay nhưng Thầy không làm chính trị. Nhưng bất kỳ ai thì cũng phải có thái độ về chính trị, lúc cần thì phải nói về đất nước, non sông, tiền đồ của dân tộc chứ không giành quyền lực chi của người ta hết.
Thầy có nới với Phật tử là ngay cả lúc phá chùa, họ đến tống Thầy vào tù thì cũng không sao con à. Phật dạy thế gian vô thường. Chùa họ đến phá đi được thì mình cũng có là chi? (cười)


Tuấn Khanh (ghi)


--------------------------------------
Tham khảo thêm:

TÂM TÌNH CỦA THẦY THÍCH THIỆN PHÚC VỀ VIỆC NHÀ CẦM QUYỀN THU HỒI ĐẤT CHÙA AN CƯ - QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.
(ngày 1/11/2018)
Tôi tên Huỳnh Văn Côi, Đạo hiệu Thích Thiện Phúc. Hiện trú tại Chùa An Cư, Tổ 171 nay là tổ 80 Phường An Hải Bắc, Quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng. Tôi kính trình đến các cấp lãnh đạo kiến nghị về việc thu hồi đất. Giao cho ban quản lý dự án công trình đường Bạch Đằng sử dụng để xây dựng khu dân cư An Cư 4.
Thưa quý ông bà lãnh đạo thuộc các cấp chính quyền. Xét rằng dự án trên không phải là một dự án quan trọng thuộc bộ Quốc phòng hay các dự án có tầm cở của Quốc gia. Mà là một dự án khu dân cư bình thường. Vì vậy, yêu cầu tái định cư tại chổ là điều khả thi. Vì sự an sinh và phát triển của thành phố, vì sự tọa lạc của chùa An Cư chúng tôi, chúng tôi sẻ ra đi nhưng chúng tôi kiến nghị:

THỨ NHẤT:
- Chúng tôi không bán đất Chùa.
- Chúng tôi không nhận tiền đền bù, không nhận đất ở nơi khác.
- Chúng tôi Không chấp nhận đi đến địa phương nơi khác. Hoán đổi đất và tái định cư tại chỗ đường Vương Thừa Vũ cho Chùa một lô đất bằng tổng diện tích đất mà Chùa bị thu hồi là 317,80m2. Làm lại chùa tương đương với diện tích đã được đo đạc như trong bản kiểm định. Sau khi xây dựng xong cấp quyền sở hữu sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất, thì chúng tôi sẽ trao quyền sở hữu sử dụng cũ và tiến hành bàn giao mặt bằng về nơi ở mới.
THỨ HAI:
- Nếu muốn chúng tôi tự định đoạt thì phải cấp lại đất tương đương cũng như trên, sở tài nguyên và sở xây dựng phải cấp giấy quyền sử dụng đất và giấy phép xây dựng để chúng tôi tiến hành làm lại nơi mới, phải bảo đảm thời gian chúng tôi xây dựng lại kẻo tránh những bất trắc có thể xảy ra, đồng thời treo bảng Chùa như cũ. Chúng tôi sẽ bàn giao mặt bằng.
- Trường hợp không giải quyết được, nếu cưỡng chế thì chính quyền thông báo cho tôi biết trước 15 ngày để tôi dàn xếp y phục và dụng cụ cá nhân. Đến ngày cưỡng chế khi chính quyền đến chúng tôi tự đi ra và giao Chùa cho chính quyền định đoạt, cho chúng tôi xem cảnh phá Chùa . Xong chúng tôi đi tìm nơi tá túc.
Kính chúc Quý Ngài Sức Khỏe. Người kiến nghị kính trình.
Tỳ kheo Thích Thiện Phúc

Friday, October 19, 2018

Dáng hình phụ nữ




Hồi đầu năm, trong một cuộc trò chuyện với bà Hoàng Thị Bình Minh, thân mẫu của tù nhân lương tâm Lê Thu Hà, tôi có hỏi bà rằng điều gì khiến một người phụ nữ yếu ớt, kín tiếng như bà lại đột nhiên trở thành một người viết đơn gửi cho Liên Hợp Quốc, xuất hiện trên video để kêu gọi công lý cho con mình? Nói bằng giọng run rẩy, và đôi lúc như muốn chực khóc, bà Bình Minh nói rằng trong sự tuyệt vọng, sức mạnh kỳ lạ nào đó đã bừng lên trong người, khiến bà phải hành động.

Chi tiết ít được kể lại, là trong một chuyến thăm nuôi Lê Thu Hà, bà sửng sờ khi nghe Hà hỏi “sao mẹ không đấu tranh cho con?”. Trên đường về bà Bình Minh khóc và nhận ra rằng bấy lâu nay, bà vẫn ở trong vai của một người mẹ cam chịu, đau đớn im lặng nhìn con mình bị tù đày, chịu bất công mà không biết phải làm gì.

Như hàng triệu bà mẹ khác ở bên kia vĩ tuyến 17, bị truyền đời cuộc sống sợ hãi nhà cầm quyền, luôn thủ phận trong cuộc sống vốn đã quá đỗi khó khăn của mình, bà Bình Minh cũng chỉ biết gói ghém những phần thức ăn hàng tháng cho Hà, gói nỗi niềm của mình và quay về với nước mắt câm lặng.

Nhưng chuyến đi đó là một bước ngoặc. Bà Binh Minh quay về và viết xuống lá đơn kêu cứu gửi đi ra bên ngoài Việt Nam. Bà xuất hiện trên một video và nói rành mạch “con tôi vô tội. Hãy cứu lấy con tôi”. Rồi từ ngày hôm đó, bà ngẩng đầu nhìn sự nghi ngại của hàng xóm, nhìn nhân viên an ninh lạnh lùng đến nhà bằng niềm kiêu hãnh và an nhiên. Tình mẫu tử đã biến bà thành một người mẹ tranh đấu.

Vào ngày Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tự do, rời Việt Nam, tôi chú ý nhìn vào nhiều hình ảnh và tin tức mô tả, gương mặt bà Tuyết Lan, thân mẫu của Như Quỳnh như biểu lộ sự lùi lại, chọn im lặng: Bà đã nói đủ trong giai đoạn của mình. Suốt từ lúc Như Quỳnh bị bắt cho đến khi ở tù, bà là tiếng nói của Quỳnh đến với mọi người, là tiếng gõ cửa mọi trái tim con người. Trên các đài phát thanh, các hình ảnh và kể cả trong bộ phim Mẹ Vắng Nhà, không biết bao nhiêu nước mắt của bà đã rơi xuống với câu hỏi, vang như tiếng chuông báo tử của kẻ ác “con tôi đã làm gì sai?” Chỉ có tình mẫu tử vĩ đại mới có thể khiến người mẹ dấn bước vào chỗ gian truân, xướng tên con mình cho đến khi hoàn thành, người mẹ im lặng lùi về chỗ của mình. Người mẹ như biển lớn, mẹ của mọi con thuyền.

Làm sao có thể đếm hay kể hết được về những bà mẹ như vậy, trên đất nước này, vào những ngày tháng hôm nay chập chùng khổ nạn và công lý bị chà đạp. Chỉ nhắc tên họ thôi, chúng ta – nhân dân – cũng đủ quặn đau và hiểu rõ đất nước này đang ở đâu.

Một trong những người phụ nữ mà tôi sợ phải nói chuyện lại với bà, là mẹ của tử tù Hồ Duy Hải. Bởi câu chuyện, tiếng khóc và lòng kiên nhẫn cuồn cuộn bầm đau của bà khiến người đối diện cảm thấy mình tệ mạt vô cùng, vì đã không đủ sức như Thor, một búa đập nát mọi cái ác và xây dựng lại từ đầu. Hơn 10 năm đứng ở đầu ngõ, ngủ lề đường, bán cả gia sản để đi kêu oan cho con mình, bà Nguyễn Thị Loan đã phải kiên nhẫn từng câu chữ trong cả núi đơn từ của mình. Thậm chí bà phải kiên nhẫn với cả những gương mặt công an nhiều lần đến nhà tra hỏi “ai xúi giục bà đi kiện, ai xúi bà đi kêu oan?”. Trong những lần nói chuyện, bà luôn nấc nghẹn lên với hai chữ “trời ơi”. Tôi cũng thường im lặng – bất lực vào lúc đó. Vì tôi không biết nói sao cho bà hiểu rằng ở đất nước này không còn bầu trời. Đất nước này chỉ có đảng cộng sản. Nhưng có gọi đảng cộng sản thay “trời” khi đau thương thì như chỉ tạo thêm dòng năng lượng hãnh tiến, tiếp sức cho sự thống trị mà thôi.

Làm sao có thể kể hết những câu chuyện như vậy, những con người như vậy mà nỗi đau vẫn chồng chất, như oằn mình theo dáng hình của đất nước này. Có soạn văn tế cho những người còn đang sống, có lẽ chúng ta cũng không đủ thời gian để đọc hết được những cái tên.

Trong lần cuối cùng gặp được chị Trần Thị Nga, tôi hỏi nhỏ rằng bị đánh đập liên tục như vậy, sao chị không tạm ngừng lại. “Đau lắm thầy à”, ánh mắt của chị Nga như lạc đi khi nhớ viêc chị từng bị các công an giả trang dùng gậy sắt đánh đến gãy chân và tay. Tôi còn nhớ rõ là chị đã rùng mình. “Nhưng em không hiểu sao không ngừng được thầy ạ”, Nga nói, ánh mắt lại hồn nhiên như trẻ con. Sau đó, Nga đi tù với án 9 năm.

Thời gian sau đó, tôi vô tình được xem một bộ phim của phương Tây. Phim về những người tiền sử. Các già làng khuyên lớp trẻ rằng không nên đi săn loài mammoth, vì không giết được mà chỉ chọc giận nó. Những người khác thì quyết phải săn mammoth, để vùng đất đó không còn bị hoành hành bởi loài voi dữ khổng lồ này. “Dù sợ hay yếu, chúng ta vẫn không thể để thú dữ trị vì con người”, một thanh niên trong phim nói.

Đột nhiên, lúc ấy tôi nhớ chị Trần Thị Nga vô cùng. Và nhớ đến những người mẹ, người chị, người vợ mà tôi biết lẫn vô danh, họ vẫn đang mãi miết thực hành làm người trên đất nước này. Tôi nhớ gương mặt của họ, dáng hình số phận của họ. Tôi nhớ đến rơi nước mắt.


Tuesday, October 9, 2018

Hòa Thượng Thích Không Tánh: "Mọi diễn biến đều là duyên".


Tin về việc Hòa Thượng Thích Quảng Độ lên tàu về Thái Bình, an dưỡng nơi quê cũ của ngài đã dấy lên nhiều điều bàn tán trong công chúng. Nơi lưu trú của Hòa Thượng Thích Quảng Độ tại Thanh Minh Thiền Viện (số 90 Trần Huy Liệu) đã từ chối, sập cửa với ngài từ 15/9/2018, theo quyết định của trụ trì Thích Thanh Minh, mà theo nhiều người mô tả là “vội vã và tàn nhẫn”.
Nhiều năm nay, Hòa Thượng Thích Quảng Độ vẫn được coi là biểu tượng tranh đấu của Phật giáo chân chính trong nước, nhiều lần được các giải thưởng cao quý của quốc tế và được đề cử nhiều lần giải Nobel Hòa Bình.
Để nói thêm về chuyện này, Hòa Thượng Thích Không Tánh, trụ trì chùa Liên Trì ở Thủ Thiêm, Sài Gòn (đã bị cưỡng chế đập bỏ) dành ít thời gian cho nọi dung dưới đây.

Thưa hòa thượng Thích Không Tánh, xin ngài cho biết về tình hình của Đức Tăng Thống Thích Quảng Độ, mà nghe đâu là đã trở về Thái Bình vào ngày 5/10 vừa rồi.
  • Xin được tóm tắt như vậy, Những gì diễn ra không phải là bất ngờ mà đã nằm trong những “xếp đặt” từ lâu rồi đối với ngài. Thực tế lúc này thì hòa thượng Thích Quảng Độ đã về ở Chùa Long Khánh, thôn Đông Đoài, xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, Thái Bình. Ngài đã lớn tuổi và cũng mỏi mệt nên muốn được nghỉ ngơi, và nói chỉ còn chờ lúc vãn sanh. Ngài cũng nói khi ngài mất rồi thì Hội Đồng Lưỡng Viện của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nên chọn thời điểm thích hợp để cùng họp bàn và bầu chọn vị trí Đệ lục Tăng Thống. Nói vậy bởi lúc này thì ngài chọn nghỉ ngơi mà không từ nhiệm.
Tuy nhiên, việc ngài về quê và tạm thời không quản lý việc Phật sự trong một thời gian, cũng khiến cho nhiều người lo ngại và nghĩ rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có thể không còn nữa.

Hiện nay chúng tôi đã nhận được nhiều hình ảnh và thông tin báo rằng ngài hiện cũng an nhàn và không gặp khó khăn gì. Về phần tuổi già của ngài, thì tôi cũng có mừng việc ngài được thảnh thơi vì lâu nay đã quá mệt mỏi rồi. Nhưng về mặt thế sự thì rõ rằng Nhà nước Việt Nam đang đắc lợi vì không còn phải mang tiếng là giam lỏng ngài, hết sức thuận lợi trong các việc đối thoại quốc tế.
Còn về phía Giáo hội (Thống Nhất) thì cũng có ý kiến hụt hẫng, buồn lo là việc Đức Tăng Thống quy ẩn như vậy có thể ảnh hưởng đến tồn vong của giáo hội, vốn đã gặp nhiều khó khăn từ 1975 đến nay. Bởi lúc này hình ảnh của ngài thi quá lớn, khó mà thay thế được.

Tin tức nói là Đức Tăng Thống bị “đẩy” ra khỏi Thanh Minh Thiền Viện từ 15/9 trong tình cảnh rất o ép, nhưng đến tuần đầu tháng 10 thì ngài mới rời khỏi Sài Gòn. Như vậy là có hay không chuyện ngài đã cố tìm cách ở lại nhưng không còn được nữa?
  • Theo tôi, mọi thứ diễn ra thế nào, thì cũng thuộc về quyết định cuối cùng của ngài, chứ không ai có thể ép được ngài. Mọi lời bình luận như “áp lực chính trị” hay “trục xuất” chỉ có ý nghĩa một phần, vì Đức Tăng thống đã chọn một phương thức theo ý ngài. Bên cạnh đó, mọi thứ như một kịch bản do “ai đó” dàn dựng, đã được sắp xếp, như một cách hờm sẳn từ trước. Có thể Đức Tăng Thống biết, nhưng một thân một mình, sức yếu nên việc ứng phó cho thế nào để phù hợp là điều chỉ có ngài mới rõ. Đây là điều xin quý anh chị cứ tự suy luận đơn giản thì cũng sẽ biết. Được biết, ngay cả ngôi từ đường ở Thái Bình mà hiện nay ngài trở về đã được chính quyền âm thầm xây cất, chỉnh tu từ 2 năm trước. Mọi thứ rất khang trang. Chung quanh các tin tức rối và nhiều, nhưng sự thật thì như tôi vừa trình bày.
Việc Đức Tăng Thống bãi nhiệm 2 người của Giáo hội và viết thư tay kêu gọi tín đồ, tăng ni… hãy đoàn kết với nhau cho thấy điều gì đang xảy ra trong nội bộ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất?
  • Trước giờ, Đức Tăng Thống từng ra nhiều giáo chỉ liên quan đến việc bổ nhiệm. bãi nhiệm, từ chối… nhân sự trong Giáo hội nhưng nói cho đúng, bối cảnh lúc trước ngài bị cô lập, thiếu thông tin rồi nóng lòng vì an nguy của Giao hội nên chịu nhiều tác động của những người có điều kiện kề cận hay liên lạc với ngài. Có giáo chỉ của ngài đưa ra thì hợp lý nhưng cũng có giáo chỉ ký xuống thì lại bất thường… Những việc như vậy cho thấy sự bất cập của Giáo hội và cũng không đúng với hiến chương của Giáo hội. Chẳng hạn như việc ngưng chức của HT Thích Chánh Lạc hay HT Thích Viên Lý đều là chuyện ai nấy bắt ngờ và lo ngại vì biết rằng ngài chịu nhiều tác động không đúng. Mà những điều đó đã kéo dài nhiều năm chứ không phải đến bây giờ mới có.
  • Lúc này, trước khi thuận theo việc phải an trí, ngài như muốn làm một vài điều cuối nhằm tạo lại cân bằng cho sinh hoạt Giáo Hội (như trường hợp bãi nhiệm cư sĩ Lê Công Cầu – chú thích của người phỏng vấn). Nếu theo dõi những khó khăn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất lâu nay, ắt quý vị sẽ hiểu.
Nhưng cốt lõi là ngài bị cô lập quá lâu và không được tiếp xúc và thảo luận với chư tôn trong và ngoài nước nên ít kiểm soát đúng được tình hình.
Rất nhiều Phật tử hoang mang trước sự kiện mới mẻ này. Vốn là một người từng nhiều năm sát cánh bên Đức Tăng Thống và am hiểu tình hình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ngài có thể cho một lời khuyên như thế nào về tình hình lúc này?
  • Nhà nước Việt Nam đã hết sức khôn ngoan trong việc giải thoát cho chính họ việc luôn bị lên án là cô lập hòa thượng Thích Quảng Độ. Họ tạo nên các tình huống và đưa đến cung đường hẹp cuối cùng là ngài phải về quê, nơi được tạo dựng rất khang trang đón sẳn. Đức Tăng Thống đã quá già yếu và cô đơn nên không đủ tự chủ trong những việc như vậy. Sự chuẩn bị công phu của phía Nhà nước Việt Nam hoàn toàn đem lại một bộ mặt khác cho họ về vấn đề đàn áp tôn giáo, thuận lợi với Châu Âu trong việc ký kết hiệp ước thương mại chẳng hạn.
  • Về mặt con người thì chúng ta mừng cho ngài tuổi già sức yếu, nay được yên ổn. Nhưng về mặt Giáo hội thì lại có nhiều nỗi lo.
  • Tuy vậy, tôi nghĩ rằng mọi thứ trên đời này đều có những huyền cơ, con người, Giáo hội hay đất nước đều vậy. Tôi mong rằng tất cả các tăng ni, tín đồ có một lòng hoài bão với đất nước, dân tộc và đạo pháp nên nuôi một niềm tin rằng mọi diễn biến đều có cơ duyên của nó, còn trước mặt hiện ra chỉ là thời sự của giai đoạn.
  • Xin mọi người vững lòng, tâm an nhiên, cùng quyết đồng hành với đạo pháp, dân tộc. Khi mọi thứ thuận duyên từ trong ra ngoài, từ quốc nội đến hải ngoại thì những điều tốt đẹp nhất chắc chắn sẽ đến.
  • Lúc này là lúc ý thức cần phải được gieo và bừng lên trong mỗi con người, biết lo lắng và nghĩ suy cho tiền đồ của quê hương, điều đó quan trọng hơn một diễn biến nhất thời trước mắt.

Tuấn Khanh (ghi)

Thursday, September 13, 2018

Tuyệt thực & khoan hồng


(Tặng những người bạn đang âu lo của tôi)
Bức ảnh trắng đen lịch sử, ghi lại giờ phút mà nhà cầm quyền trả tự do cho ngài Thích Tuệ Sỹ. Đó là một đêm vào năm 1998, trên chuyến xe đưa những ngài cùng nhiều người khác ra khỏi nhà tù. Ngồi chung với ngài, từ trái qua là thầy Thích Phước An, thầy Thích Tuệ Sỹ và thầy Thích Phước Viên.
Nụ cười an nhiên vẫn thường trên gương mặt của ngài, một người trãi qua miệt mài những năm tù, thậm chí kề cận với án tử hình ấy, có thể làm bạn phải nghĩ suy về nhiều điều. Phải có trái tim mang đầy niềm tin chính nghĩa, vô úy, vô ngã… mới có thể khiến con người nhẹ bước qua những điều khó tin trong một thế giới với pháp luật, chính trị tăm tối như trong bức hình ấy.
Năm 1978, ngài Thích Tuệ Sỹ bị công an ập vào chùa Già Lam, Sài Gòn, bắt mang đi cải tạo – với lý do như hàng trăm ngàn trí thức, công chức, cựu binh… của miền Nam, mà đường về nhà thì tùy theo vui buồn của các nhà lãnh đạo cộng sản, gọi là khoan hồng. Những tháng năm giam hãm “cải tạo” không tên gọi chính thức đó, kéo dài đến năm 1981.
Năm 1984, ngài bị bắt cùng 17 người nữa, trong đó có giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát. Lý do bắt giữ, mà công an khép tội, nghe cũng rất quen thuộc là “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”. Nhưng thực chất, cuộc bắt giữ nhằm chặn đứng phong trào phục hưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, sau khi nhà cầm quyền đã tìm cách phế bỏ tổ chức này, bằng cách lập ra một giáo hội Phật giáo của Nhà nước kiểm soát vào năm 1981, và tổ chức này vẫn hoạt động với sự yểm trợ chính trị của nhà nước Việt Nam cho đến nay.
Lúc bị bắt, công trình “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” lớn nhất của hai vị Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát, hai bậc học giả Phật giáo hàng đầu của Việt Nam, là việc soạn cuốn Bách Khoa Phật học Ðại Tự Ðiển.
Vào những ngày tháng không có mạng xã hội, không có thư tín tự do và cũng không cơ quan truyền thông quốc tế nào được đi lại, dự khán tòa án, án tử hình đã được áp cho ngài Tuệ Sỹ trong tháng 9/1988. Với các phiên xử đấu tố theo kiểu miền Bắc trước năm 1975, có lẽ không có gì là quá bất thường trong xã hội Việt Nam khép kín bấy giờ, nhưng tin tức về bậc trí giả Phật giáo Việt Nam bị án tử hình đã làm cả thế giới chấn động. Nhiều quốc gia lên tiếng phản đối, các tổ chức quốc tế và cơ quan Liên Hợp Quốc đã liên tục chất vấn và làm áp lực với Hà Nội khiến hai tháng sau, án tử hình được chuyển thành án tù chung thân.
Khi ấy, tòa án không có luật sư, và ngài Tuệ Sỹ cũng không làm đơn xin kháng án hay phúc thẩm. Án chung thân đưa ngài đi xa cả ngàn cây số khỏi miền Nam, và giam ở trại Ba Sao, Hà Nam, nhằm cắt đứt mọi liên lạc với giới tăng ni và tín đồ đang đau đớn dõi theo.
Nhưng khi Việt Nam bắt đầu nối kết với thế giới, đặc biệt là khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận vào năm 1994, những vết nhơ như án tù và sự đàn áp tôn giáo với ngài Tuệ Sỹ cùng nhiều người khác phải được rửa để những cái bắt tay làm ăn được tự tin hơn, sạch hơn. Một phái đoàn đặc biệt được cử đến trại giam gặp ngài, và đề nghị ngài viết đơn xin ân xá, để được nhà nước khoan hồng. Thậm chí đơn được đánh máy sẳn, đề sẳn tên người gửi là chủ tịch Trần Đức Lương. Đơn chỉ cần ngài ký tên là xong.
Nhưng ngài Tuệ Sỹ đã từ chối lá đơn xin ân xá đó, và trả lời rằng: “Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi”. Việc ép buộc diễn ra với những kiểu khác nhau, và để chống lại, ngài đã tuyệt thực để phản đối.
Khác với trường hợp Trần Huỳnh Duy Thức, sau 10 ngày tuyệt thực và tin tức lan đi, nhà cầm quyền phải nhượng bộ và trả tự do cho ngài. Nhưng một năm sau đó thì ngài lại gặp khó khăn trong việc sinh hoạt tín ngưỡng, để rồi luôn như trong tình trạng giam lỏng hoặc theo dõi chặt chẽ, suốt từ đó đến nay.
Sự kiện ông Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực chống lại việc ép buộc viết đơn xin ân xá, cho thấy suốt bao nhiêu thập niên, chính sách của nhà tù và kiểm soát chính trị của nhà cầm quyền Việt Nam hoàn toàn không đổi, chỉ có gay gắt hơn và thách thức hơn.
Hai con người trong hai thời điểm khác nhau, nhưng hoàn toàn giống ở chỗ, khi ngài Tuệ Sỹ tuyệt thực, ngài không tin rằng ai đó bên ngoài sẽ giúp được mình. Ngài chấp nhận cái chết đến trước mắt như lẽ đương nhiên vì không muốn quỳ gối trước cường quyền. Ông Trần Huỳnh Duy Thức thì biết mình được ủng hộ bởi nhiều người, nhưng ông sẵn sàng chấp nhận cái chết đến, vì biết khó mà thuyết phục một nhà cầm quyền như Việt Nam biết thượng tôn pháp luật một cách đơn giản theo lẽ nhân loại văn minh.
Hình ảnh chung của cả hai con người ấy, là nụ cười. Đích đến là chân lý, luôn làm con người mạnh hơn cả ngục tù và súng đạn. Khi đích đến là chân lý, nụ cười luôn ở trên môi. Nụ cười đó, là khoan hồng vô lượng sẵn có trong tim, đủ thức tỉnh dân tộc giữa những đêm dài tăm tối.
Tôi luôn nhớ, và tôi mời bạn cùng nhớ.

(Bài viết, nhân ngày tuyệt thực thứ 32 của Trần Huỳnh Duy Thức, tại trại giam số 6, Nghệ An)

Saturday, September 8, 2018

Hàng chục người tham gia đồng hành tuyệt thực với Trần Huỳnh Duy Thức




  • Tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức đang bước đến ngày thứ 30, tròn một tháng tuyệt thực tại trại giam số 6 Nghệ An.
  • Số người ghi danh đồng hành tuyệt thực cùng Trần Huỳnh Duy Thức đã vượt qua con số 60, và có ý kiến kêu gọi tổ chức tuyệt thực tập thể để ủng hộ.
  • Theo các báo cáo y khoa, ngưỡng chịu đựng của một người tuyệt thực từ 30 cho đến 45 ngày


Gia đinh của ông Trần Huỳnh Duy Thức cho biết, mỗi ngày đều có người của gia đình gọi điện thoại vào trại giam số 6 Nghệ An để thăm hỏi tình hình sức khỏe của ông Thức. Tuy nhiên điều kỳ lạ là số điện thoại chính của trại giam đã luôn có chuông mà không hề có ai bắt máy. Điều này đã xảy ra kể từ khi ông Thức  bắt đầu tuyệt thực được một tuần.

Vào ngày thứ 22 tuyệt thực của ông Thức, tổ chức Amnesty International, văn phòng tại Thái Lan đã phát động chiến dịch ủng hộ cho tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức, có tên “Tôi Thức để #Free Thức”. Chương trình này kêu gọi các người dùng facebook quan tâm đến tình trạng của ông Thức hãy đổi hình đại diện (avatar) do Amnesty International, văn phòng Thái Lan đề nghị.

Văn bản phát động chiến dịch này ghi rằng:
“Trần Huỳnh Duy Thức đang tuyệt thực ở trong tù để phản đối sự ngược đãi và việc công an ép ông phải nhận tội. Chúng tôi đồng hành cùng với gia đình của ông và kêu gọi mọi người ủng hộ bằng cách share hoặc sử dụng hình ảnh này làm hình đại diện cho trang cá nhân của mình.

Trần Huỳnh Duy Thức là một kĩ sư và là một doanh nhân ở thành phố Hồ Chí Minh. Ông sáng lập ra EIS, một công ty chuyên về cung cấp dịch vụ internet cho điện thoại di động ở Việt Nam có chi nhánh ở Singapore và Mỹ. Ông sau đó trở thành một nhà hoạt động và tập trung vào việc viết blog về tình hình chính trị xã hội ở Việt Nam và góp ý cho chính phủ về các hướng cải cách. Ông cũng thành lập phong trào Con Đường Việt Nam, một tổ chức nhằm cổ xúy các giá trị của nhân quyền và dân chủ.

Trần Huỳnh Duy Thức bị bắt và kết án 16 năm tù vào năm 2010 với cáo buộc “âm mưu lật đổ chính quyền”. Ông là một trong những tù nhân lương tâm có tên trong danh sách mà chúng tôi công bố hồi tháng Tư năm nay”.

Cùng với lời vận động này, gia đình của ông Trần Huỳnh Duy Thức cũng phát đi lá thư ngỏ, kêu gọi mọi giới trong và ngoài nước hãy quan tâm đến tình trạng của ông Thức. Và đây có lẽ là lá thư ngỏ đầu tiên phát đi không có ý định gửi cho bất kỳ một cơ quan nào nhà nước hay nhân vật lãnh đạo hiện thời, mà chỉ nhằm gửi đến người dân Việt Nam. Nói mọi cách nào đó, lá thư ngỏ này thể hiện tuyệt đối tinh thần kiên cường của ông Trần Huỳnh Duy Thức là “không van nài, không xin xỏ”.

Lời kêu gọi của thư ngỏ nhấn mạnh rằng:
“Hãy gọi tên Trần Huỳnh Duy Thức, như một cách gọi tên công lý phải được thực thi, trên mọi trang mạng xã hội, mọi phương tiện giao tiếp của thế giới phẳng.


Hãy nhắc tên Trần Huỳnh Duy Thức ở mọi cơ hội trò chuyện trực tiếp và giải thích về quyền con người và đạo đức của một nhà cầm quyền.

Xin mọi thánh lễ Công giáo, nhật tụng Phật giáo hay các buổi cầu nguyện của Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành… hãy dành chút thời gian đồng hành cùng Trần Huỳnh Duy Thức trong việc đòi công lý, bày tỏ một chính kiến ôn hoà trước một hiện thực bị che giấu.

Lên tiếng cho Trần Huỳnh Duy Thức hôm nay, là lên tiếng cho chúng ta và quê hương ngày mai, với niềm tin mãnh liệt rằng con người Việt Nam không bao giờ từ chối lẽ phải, không bao giờ né tránh sự thật”.

Ngay sau khi thư ngỏ này phát đi, danh sách những người quyết đồng hành tuyệt thực cùng với Trần Huỳnh Duy Thức đã nhanh chóng tăng lên từng ngày, hiện đã vượt con số 60 người, bao gồm, sinh viên, công nhân, thầy tu, bác sĩ… trong số đó có những người quen thuộc với giới bất đồng chính kiến như tù nhân lương tâm Lê Thăng Long, Điều phối viên Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm Phạm Bá Hải, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, nhà văn Phạm Đình Trọng…

Thầy Thích Ngộ Chánh, một trong những người đầu tiên tuyệt thực đồng hành, từ Lâm Đồng, nói rằng “Những gì ông Thức đang làm, cho thấy ông là một người vô ngã, vị tha với tấm lòng cho quê hương đất nước, vì vậy tôi đồng hành là để kêu gọi thêm sự quan tâm đến trường hợp của ông”.

Vy Nguyễn, một trong những người tuyệt thực đồng hành cho biết không chỉ riêng cô, mà cả gia đình đều ủng hộ việc cô lên tiếng đồng hành với ông Trần Huỳnh Duy Thức. Thậm chí các anh của cô cũng sẳn sàng tuyệt thực đồng hành bên cạnh cô.

Có tin, có thể một số người tuyệt thực đồng hành cùng ông Trần Huỳnh Duy Thức sẽ tập hợp tuyệt thực, bất chấp việc có thể bị đàn áp.

Nói trên đài Á Châu Tự Do, bà Trần Diệu Liên, chị gái TNLT Trần Huỳnh Duy Thức nới rằng gia đình hết sức cảm động và ấm lòng khi thấy có nhiều người chia sẻ ước mơ và hoài bão của ông Trần Huỳnh Duy Thức trong lúc này. “Chỉ cần mỗi con người với một chút sức,thì chính quyền sẽ phải lắng nghe và đối thoại”, bà Trần Diệu Liên nói.