Hòa thượng Thích Thiện Minh, người kể lại câu chuyện cũng là một tù nhân 26 năm, có cơ duyên gặp được cả hai vị linh mục và hòa thượng trong trại Xuân Lộc, Đồng Nai |
Câu chuyện Giáng sinh của những năm rất xa được kể lại, cho thấy yêu thương và hòa đồng là điều đã luôn có, nhưng luôn mất đi hay bị thao túng vì chính trị.
------
· • Linh mục Trần Đình Thủ (1906-2007) là người sáng lập ra Dòng Đồng Công tại Việt Nam từ năm 1953. Trong một thời hai thập niên 60 và 70, sự phát triển mạnh mẽ của dòng tu này khiến những người chứng kiến phải khâm phục. Hoạt động của Dòng Đồng Công Là tập trung vào việc phát triển giới trẻ và mở rộng tất cả những hoạt động hỗ trợ cho giáo dục cho thanh thiếu niên nghèo. Tháng 6/1976, linh mục Đa Minh Maria Trần Đình Thủ bị chính quyền mới bắt giam lần đầu (giam trong một năm) cùng với 52 người của nhà Dòng tại Di Linh, mà lý do cho đến hôm nay vẫn mù mờ. Theo nhiều người kể lại, phía công an bắt giam nói khám phá tài liệu dạy giáo lý cho tín hữu của Dòng Đồng công do Linh mục Đa Minh Maria Trần Đình Thủ soạn thảo, mang tính chất tuyên truyền phản động chống Đảng và nhà nước XHCNVN. Thật khó giải thích, vì các tài liệu giáo lý này dạy rằng phải vâng lời và tín thác cho Chúa chứ không vì điều gì khác. Án tù (bắt lần hai, từ năm 1987) của linh mục Trần Đình Thủ là 20 năm, nhưng ngài chỉ ở có 6 năm thì được trả tự do, do sự vận động của nhiều nơi.
· • Hòa thượng Thích Đức Nhuận (1924-2002) là một bậc trí giả, ngài vừa là giáo sư triết học Phương Đông của đại học Vạn Hạnh, vừa là chủ bút của của nguyệt san Vạn Hạnh và Hóa Đạo, cũng là chánh thư ký viện Tăng Thống Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (từ 1967 đến 1973). Năm 1985, ngài bị chính quyền mới kết án âm mưu, tổ chức chống cách mạng, do đó có cùng thời gian được gặp gỡ và làm bạn với linh mục Trần Đình Thủ. Ngài ngồi tù 9 năm, và về chùa Giác Minh tĩnh tu vào năm 1993. Từ năm 1977, hòa thượng Thích Đức Nhuận đã bày tỏ chính kiến và sự khác biệt với chính quyền mới. Nhiều bài phân tích và tuyên bố của ngài đã gây xôn xao trong lòng người miền Nam lúc đó. Bản cáo trạng phát đi năm 1977 của ngài là một ví dụ. Trong đó, ngài viết “Nạn nước không từ ngoài tới, mà bi thảm thay, lại do chính con người Việt Nam, mất linh hồn, chối bỏ dân tộc, từ chối giá trị làm người, cam tâm làm tôi tớ cho ngoại bang... xô đẩy đồng bào đất nước ta vào cuộc chiến tranh lửa đạn, một cuộc chiến tranh tàn bạo, nhơ bẩn, phi lý, chỉ nhằm phục vụ ý thức hệ và quyền lợi của khối Quốc tế Vô Sản… Hiện đồng bào mọi giới đang phải nép mình sống cuộc đời tù ngục, mất hết tự do kể cả thứ tự do tối thiểu cần có dành cho con người là quyền cư trú, đi lại, làm ăn sinh sống cũng đã bị nhà nước ngụy quyền cộng sản hạn chế, ngăn cấm.” (trích)