Thursday, April 25, 2019

“Những mảnh đời sau song sắt” – ký ức không thể để quên lãng



Thỉnh thoảng, tôi vẫn hay phải kể lại những câu chuyện về thời người Việt Nam khốn khó, những ngày tháng sau 1975, khi bữa cơm độn với khoai, với trấu. Và thậm chí bữa ăn chỉ toàn là bo bo, một loại thức ăn cho ngựa của Nga sô. Rất nhiều người không biết về giai đoạn đó. Người ta hay dễ quên. Nhất là vào giai đoạn cái ăn cái mặc dễ dàng hơn. Người ta hay quên.

Cũng như vậy, khi tôi đọc cuốn sách của Phạm Thanh Nghiên - “Những mảnh đời sau song sắt” – cảm giác lúc đó cũng không khác gì những người trẻ tuổi. Tôi thấy mình dường như cũng đang quên. Cuốn sách kéo giật tôi về hiện thực, rồi nhắc tôi nhớ lại rất nhiều tác phẩm nói về tù ngục và sự cùng quẩn của một con người bị đẩy đến chân tường. Những con người với suy nghĩ bình thường – nhưng chỉ bình thường thôi đã là trọng tội trong chế độ độc tài.

Cuốn sách bắt đầu với ngày 18 tháng 9 năm 2008, vào lúc 9:45 phút sáng. Rất đông công an đã đến bao vây tư gia của mẹ cô Phạm thanh Nghiên, lúc cô Nghiên đang tọa kháng tại phòng khách, phản đối công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi đến chính phủ Trung Quốc vào ngày 14 tháng 9 năm 1958. Chứng cứ để bắt Nghiên, là cô đang ngồi ở phòng khách nhà mình, và có biểu ngữ “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam”.

Từ một phụ nữ có tiếng nói khác biệt, Nghiên dần dần trở thành một người tranh đấu cho lẽ phải, giới thiệu về lẽ phải với cả những nhân viên công quyền. Và cô ghi chép lại cả cuộc tranh đấu đó với một thế giới quan hấp dẫn.

Những đoạn đối thoại trong sách, thật sự thú vị. Nó thú vị đến mức khiến người đọc hồi hộp trước những tình huống, và các câu hỏi mà Phạm Thanh Nghiên gặp phải, vì nếu tự đặt mình vào tình huống đó, chưa chắc gì mình đã có được một phản ứng suông sẻ.

Tôi may mắn được được đọc nhiều tác phẩm đối thoại trong nhà tù của cộng sản. Từ Trại Đầm Đùn của Trần Văn Thái (giải thưởng văn học của VNCH năm 1970) cho đến Số không với vô tận của Arthur Koestler, từ đó, nhận ra rằng những cuộc đối thoại giữa công an viên và tù nhân trong các chế độ cộng sản thay đổi dần qua năm tháng. Từ sự dã man và vô luân lý, họ đi dần qua các thủ thuật tâm lý rồi dẫn đến những kẻ giăng bẫy người tinh khôn, thậm chí điên cuồng săn lùng nhân tính của người đối diện để kết án.

Sách của Phạm Thanh Nghiên cũng vậy, nhưng mở ra một thế giới mới, hiện đại của các nhân viên thẩm vấn của thế kỷ 21. Tất cả mọi thứ là một chuẩn mực mới: thô bỉ hơn, trớ trẽn hơn, kiên nhẫn hơn và xảo quyệt hơn.

Tôi không thể diễn tả hết được cảm giác của mình khi đọc đến đoạn Chiềm (tôi không biết đó là tên thật hay đã được thay đổi), một công an thẩm vấn, tặng cho Phạm Thanh Nghiên cuốn tập nhạc của Trịnh Công Sơn và đề nghị hát cho cô nghe. Chú mục và sự kiện, có thể tưởng rằng đó là một hoạt động đáng mến giữa người và người, nhưng nhìn rộng, sẽ thấy đó chỉ là một bước của trò đặt bẫy cảm giác cũng như nhân đó giới thiệu phần “văn hóa” và “nhân cách” của mình với người đang bị giam cầm.

Trong lời giới thiệu Trại Đầm Đùn, NXB Nguyễn Trãi viết rằng “tai họa bất ngờ không biết đâu mà lường trước được. Miệng cán bộ, miệng đảng viên có gang có thép, họ bắt bẻ, buộc tội như thế nào, tù nhân cũng đành chịu, cán bộ bảo sống là sống, bảo chết là chết, tù nhân không thể nào tránh né được.”.

Trong Số không với vô tận, nhân vật Rubashov đã phải chịu liên tục các phiên thẩm vấn đêm, từ hai nhân viên là Ivanov và Gletkin. Trong đó có một người từng là đồng chí của Rubashov – để nhằm dễ luồn và tâm lý và khai thác.

Những gì Phạm Thanh Nghiên chịu đựng trong tù là tổng hợp cả những điều ấy. Vì các thẩm vấn viên giỏi chuyển mình như thể là những người am hiểu và chia sẻ tính cách, suy nghĩ của cô, nhưng bất kỳ giờ nào họ cũng trở thành “có gang có thép” và trở thành phán quan.

Nhưng có lẽ, cuốn sách của Nghiên là cuốn sách đầu tiên của một phụ nữ nói về nhà tù và hoàn cảnh của mình, hoàn cảnh của những người phụ nữ khác. Cuốn sách chân thật đến nỗi, người ta có thể cảm nhận được mùi của phòng giam tổng hòa thức ăn và hố xí kề bên. Nó gai góc và rõ nét đến mức ngang hàng với một hồ sơ tố cáo.

Nhưng Phạm Thanh Nghiên viết ra không để hù dọa những ai đang dám cất lên tiếng nói của mình mà giới thiệu rõ phía bên kia của bóng tối là gì. Nghiên viết không phải để làm nhụt chí những ai có lẽ sống như mình, mà viết như một chứng thực rằng với sự thật và niềm tin, cô đã đi qua những nơi đó, và bất kỳ ai cũng có thể.

Hơn cả đáng quý, đây là một cuốn sách chân thật và hiếm hoi, cho tôi và cho bạn.

Khác với miếng cơm độn hôm qua, bọn trẻ hay chúng ta có thể quên, nhưng sự phi nhân tính và bóp nghẹt quyền được nói trong cuộc sống, là điều buộc chúng ta phải nhớ, phải đòi quyền thanh tẩy. Sách sẽ luôn nhắc tôi và bạn về điều đó.



--------------------

TB: Trong sự kiện hàng trăm người dân Vườn Rau Lộc Hưng bị rơi vào cảnh khốn khó. Phạm Thanh Nghiên đã quyết định dành trọn số tiền bán sách có được, để giúp cho người dân ở đây (mà chính cô cũng là một nạn nhân). Sách bán được đợt 1 (46 triệu) và đợt 2 (28 triệu) đã trao tặng cho trẻ em và gia đình những nạn nhân Vườn Rau Lộc Hưng, thông qua linh mục Nguyễn Duy Tân.

Lúc này, Phạm Thanh Nghiên dự định dành 100 bản in cuối để gây quỹ cho người dân Vườn Rau Lộc Hưng, hiện đang rất bức thiết. Xin mời bạn góp tay cho quỹ này.

--------------------

HƯỚNG DẪN MUA SÁCH: Giá sách là 200.000 VND/cuốn. Bạn gửi tiền mua sách về tài khoản của linh mục Nguyễn Duy Tân (giáo xứ Thọ Hòa, Long Khánh, Đồng Nai).

Dưới đây là thông tin tài khoản:

Nguyen Duy Tan Ngân hàng Agribank, chi nhánh Long Khánh

Số tài khoản: 590 620 522 4304

Sau đó, bạn gửi thông tin cho chúng tôi (những người đăng bài giới thiệu, quảng bá cuốn sách). Thông tin gồm: Tên người nhận + Địa chỉ nhận sách + Số lượng + Số điện thoại di động + Đính kèm biên lai chuyển tiền hoặc tên người chuyển tiền. Sau khi nhận được thông tin, chúng tôi sẽ chuyển sách cho bạn. Xin cám ơn.

Thursday, April 18, 2019

Là một người Việt, tôi mang ơn các bạn


Cách đây hai năm, có 3 người phụ nữ đến trước cửa trường Lương Thế Vinh, Quận Thủ Đức tìm cách giơ khẩu hiệu để yêu cầu nhà trường phải có tiếng nói với vụ ấu dâm xảy ra một bé gái học lớp 1, mà nơi đó có những dấu hiệu bao che tội phạm.
Đó là ngày 16 tháng 3, năm 2017. Một ngày thật khó quên đối với 3 người phụ nữ là Nguyễn Thị Bích Ngà, Lê Thúy Bảo Nhi và Nguyễn Thanh Loan. Những người phụ nữ này không bao giờ tưởng tượng được rằng việc đòi hỏi sự thật và thực thi công lý cho một bé gái bị xâm hại, đã khiến công an phường Linh Đông - Quận Thủ Đức dùng hàng chục an ninh thường phục, dân phòng và cả cảnh sát địa phương và giao thông chặn bắt và hành hung dã man. Một trong ba người phụ nữ đó phải đi cấp cứu vi chấn thương đầu.
Trong cuộc bắt bớ và điều tra rầm rộ đến man rợ đó, công an đã chất vấn những người phụ nữ này rằng “Đâu phải người thân của mày đâu mà mày phản ứng”. Loại câu hỏi như vậy vẫn thường được thấy trong các vụ bắt giữ và điều tra khi người dân vì ý chí muốn lên tiếng cho cộng đồng, vì những giá trị chung.
Giống như kiểu nhà cầm quyền muốn tách từng chiếc đũa ra khỏi bó đũa nguyên khí Việt. Những chiếc đũa bị tách ra và âm mưu bẽ gãy, là những chiếc đũa đạo đức cá nhân, tình đồng bào và ý chí công dân trong một quốc gia. Những người phụ nữ ấy bị đàn áp bởi loại chủ trương muốn con người Việt co cụm và hèn nhát. Chủ trương âm mưu muốn con người Việt Nam sống chết mặc bây, dễ bảo. Và như vậy, đất nước và con người Việt Nam thật dễ kiểm soát.
Có thể âm mưu đó thành công trong một giai đoạn, vì có không ít người đã cảm thấy sợ hãi, và tự dặn mình rằng chuyện xã hội không còn là chuyện của mình. “Lo làm ăn đi”, lời đe dọa quen thuộc này vang lên ở rất nhiều nơi. Người Việt được gợi ý rằng phần tự do nhất của họ hôm nay là “làm” và “ăn”. Còn suy nghĩ là chuyện của người có quyền.
Năm 2018, một vụ ấu dâm điển hình khác ở chung cư Lakeside, Vũng Tàu, đã bị công luận gây áp lực đến mức thủ phạm bị xử 3 năm tù giam. Sự kiện này là một nấc thang mới về mặt dân quyền, khi dân chúng quá tức giận, sau vụ tình nghi bao che thủ phạm là người nhà “ai đó” ở Thủ Đức, thì đến nhân vật NKT ở Vũng Tàu bị tố cáo, là đảng viên lão thành và là cựu quan chức của bộ máy chính quyền.
Vấn đề được liên tục bàn tán trên các trang mạng, là chính quyền sẽ bao che đảng viên của mình như thế nào đây? Vụ án xử NKT thật nhọc nhằn, dằng dai đến mức luật sư đại diện cho gia đình nạn nhân phải gửi thư kêu cứu lên thủ tướng và tổ chức Unicef tại Việt Nam. Cuối cùng khi có kết quả giơ cao đánh khẽ, thủ phạm đã tức giận đến mức đốt thẻ đảng của mình, như một lời trách cứ rằng vì sao có hồng bài ấy, mà đảng vẫn không cứu nỗi ông ta.
Có thể cũng có người muốn cứu ông ta, nhưng ý chí khát khao công lý của đám đông không chịu khuất phục trước mờ ám và công lý lụn bại đã dẫn đường đến một happy-end. Người mẹ trong vụ án đó cũng có một ý chí kiên cường, khi chấp nhận mọi thứ, để sau mình, không còn mây đen trên những mái đầu trẻ thơ, nơi bà đang sống.
Năm 2019, sự kiện đình đám là vụ ông Nguyễn Hữu Linh, Viện phó Viện kiểm sát TP Đà Nẵng không chối được chứng cứ sàm sỡ bé gái trong thang máy ở chung cư Galaxy 9, quận 4, Sài Gòn. Nhưng có vẻ như một lần nữa, việc xử tội một đảng viên cao cấp – một giai cấp đặc biệt ở Việt Nam - là điều thật khó.
Lần này, những việc thô bỉ như chặn bắt, điều tra đánh đập người phản ứng với nạn ấu dâm đã không thể diễn ra như hai năm trước được nữa. Nhưng việc lần lữa, tìm phương cách “tốt nhất” cho vụ án này diễn ra không chỉ ở các tin tức giả được tổ chức trên mạng, bao gồm cả hành động trong giới cầm quyền và tư pháp.
Mới đây, một thẩm phán hiện đang làm việc cho nhà nước, đã từng khẳng định với tôi rằng “sẽ không thể bắt tội được Nguyễn Hữu Linh. Vì dù có hành động nhưng không có cách nào chứng minh được ý chí của Linh là ấu dâm, và đó chỉ là âu yếm trẻ em”. Thậm chí ông ta còn nói rằng đã có những luật sư liên hệ với gia đình của ông Linh, tự tin rằng họ nắm chắc phần thắng trong vụ bảo vệ ông Linh, thậm chí sẽ kiện ngược gia đình nạn nhân.
Ý chí – phần mà khoa học A.I ở các quốc gia tiên tiến nhất vẫn chưa dám áp dụng để đưa vào nền tư pháp, nhưng ở Việt Nam, các tội danh “tuyên truyền để chống chế độ”, “âm mưu lật đổ” vẫn sàm sỡ kết tội con người hàng ngày. Thậm chí, 12 bạn trẻ ở Biên Hòa bị 10 tháng tù do biểu tình chống Luật đặc khu, bởi bị xét về ý chí là họ muốn “gây rối trật tự công cộng”.
Và trong vụ án của ông Linh, ý chí đã được nhắc đến như giải pháp có thể cứu nguy, giới thiệu sự trong trắng của một đảng viên cao cấp.
Sự va chạm ý chí vẫn đang diễn ra từng ngày. Sự va chạm nảy lửa giữa người dân Việt Nam khát khao một đất nước tốt đẹp hơn, ít đồi bại hơn, ít quyền lực bao che… như đang chất vấn nhà cầm quyền – một dấu hỏi về khả năng có còn xứng cho việc cầm quyền hay không.
Người ta vẫn nhắc nhau từng ngày về việc trì hoãn khởi tố thủ phạm Nguyễn Hữu Linh. Dân chúng có đủ mọi cách để nhắc: bằng các lời bình trên mạng, bằng cách đến trước cửa nhà thủ phạm để selfie và căng biểu ngữ tố cáo. Những cây bút của nhà nước được chỉ đạo phản ứng bằng cách lên giọng chỉ trích những hành động như vậy, là vô đạo đức.
Nhưng ngay cả trong hành động bị gọi là “vô đạo đức” ấy để nhằm nhắc về một thủ phạm ấu dâm đang bình yên bất thường trước các chứng cứ, những con người ấy đang chịu hy sinh phần mình, để bày tỏ một ý chí phế truất bộ mặt đạo đức giả của nhà cầm quyền, đang tỏ ra không quyết liệt trước tội ác.
Đó là ý chí của một dân tộc, đầy thông minh và không cam chịu trước bất công và cường quyền. Hãy nhớ, khi những công dân dám hy sinh những vấn đề cá nhân của mình cho ý nghĩa chung của xã hội, thì đó cũng là lúc một xã hội mới khỏe mạnh đang hình thành, vận động vì ý nghĩa của từng cá nhân.
Từ những người phụ nữ bị đánh đập hôm qua ở Thủ Đức, cho đến những bạn trẻ vô danh hôm nay hành động trước căn nhà số 30 ở Đà Nẵng, cho đến những chiếc áo lẻ loi phản đối, xuất hiện trên đường phố. Tất cả, tôi thấy mình mang ơn ý chí của các bạn.


x

Wednesday, April 17, 2019

Nâng điểm vì "hồng phúc dân tộc"


Trong các vụ nâng điểm gần đây (không chỉ năm 2019) có 3 điều đáng chú ý: Một. Con cái quan chức; Hai. Các vùng xa của miiền Bắc; cuối cùng là việc nâng điểm thường dùng để học ở trường đào tạo cán bộ lãnh đạo hoặc chủ yếu là ngành công an.
Miền Bắc cũng là một trong nhưng nơi bùng phát nhiều, tình trạng mê đắm thi, xin học, mơ ước vào trường của ngành công an. Hiện tượng này cũng cho thấy quan điểm của giới phụ huynh về xã hội và quốc gia của mình không còn mưu cầu tìm kiếm cho con cái hành trang vào đời là khoa học hay tri thức tiến bộ, mà đi tìm kiếm một vị trí quyền lực xã hội.
Hoặc ở góc nhìn khác là tìm kiếm sự an toàn và bảo đảm sống còn trong một xã hội ngày càng lộ rõ hình thức công an trị.
Đây không phải là một nhận định chủ quan. Mà trong Phúc trình Thực thi Nhân quyền Thế giới năm 2018 của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ phát đi ngày 13/03/19, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Michael Pompeo tại buổi họp báo tuyên bố tình trạng nhân quyền tồi tệ trong chế độ CSVN. Trong đó, Hoa Kỳ chính thức cáo buộc Việt Nam duy trì chế độ “công an trị.”
Nhưng cáo buộc này, khá chậm trễ so với các nhà bình luận thời sự quốc tế ghi nhận. từ năm 2013, giáo sư Adam Fford của Đại học Victoria, Australia đã từng phát đi nghiên cứu của mình về chính trị Việt Nam, nhận định rằng Việt nam ngày càng công an trị.
Năm 2017, giáo sư Carl Thayer cũng viết trên blog của mình, nhận định về sự bùng phát của ngành công an Việt Nam, với ước tính, cứ 15 người dân là có một công an.
Dĩ nhiên, trong việc bùng nổ về nhân lực và ngân sách của ngành công an, tác động không ít đến xã hội, kể cả trong suy nghĩ về giáo dục và tiến thân của giới trẻ hôm nay. Trên các chiếc xe đẩy bán trang phục vui chơi của trẻ em, nhiều năm nay người ta nhìn các bộ trang phục công an, dùi cui giả, súng ngắn… đang thay thế dần các nhân vật có sức mạnh truyền thống như Batman, Spiderman… Giá trị anh hùng cá nhân trong trí tưởng tượng đang chuyển đổi qua các giá trị quyền lực thực tế mà trẻ em Việt Nam nhìn thấy hàng ngày, và thậm chí được nghe cha mẹ chúng trò chuyện. Bao gồm cả những chuyện người dân bị bắt và đồn công an và chết bất thường.
Những vụ nâng điểm để học, và trở thành công an, hay cán bộ ở các vùng xa Hà Nội, cho thấy tâm lý muốn đứng trên kẻ khác vẫn còn rất mạnh. Con cái của quan chức thi muốn tiếp tục cai trị, có quyền thế. Còn con cái của dân thường thì mang tâm lý quyết chí đổi đời, muốn không bị là kẻ thấp cổ bé miệng. Dĩ nhiên, trong các xu hướng thầm kín đó, kiểu nói hoặc suy nghĩ vô giáo dục như của bà Nguyễn Thị Quyết Tâm, cựu chủ tịch HĐND TP Sài Gòn “Con cái lãnh đạo làm lãnh đạo là hồng phúc dân tộc” cũng cổ vũ không ít cho tư duy nối ngôi của các gia đình quan chức tỉnh.
Cần phải nói thêm, án oan, ép cung, đánh chết dân… trong ngành công an, cũng thường xuất phát từ giới ít học, ham hố vị trí và khen thưởng. Việc học dốt, chạy điểm, vốn có từ cả thập niên nay, ắt hẳn cũng đã tạo ra một tầng lớp cán bộ, đặc biệt là những công an viên không có thực lực và sẳn sàng tuân lệnh mù quáng vì bản thân luôn có tỳ vết là vô học, được nâng điểm. Và từ các yếu tố thiếu thực tế tri thức và tố chất văn minh tiến bộ trong người, tầng lớp ấy sẽ hủy hoại quốc gia, khi đứng trong guồng máy được coi là quan trọng bậc nhất của Việt Nam hiện nay.
Đó là một phần của bộ mặt thế hệ mới của Việt Nam. Được gọi là hậu duệ của người Việt hôm nay và tương lai. Và trong đó, có không ít "hồng phúc của dân tộc".
Chợt nhớ, năm 2014, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam từng có câu nói gây nhiều tranh cãi “Đời tôi và các bạn chưa đòi được Hoàng Sa thì đời con cháu sẽ làm được”. Hãy tự hỏi, con cháu chúng ta là những kẻ nâng điểm, được cha mẹ là quan chức hậu thuẫn cho sự lừa dối. Những đứa trẻ lớn lên trong giấc mơ quyền hành và chạy theo danh lợi ấy sẽ làm được chuyện đòi Hoàng Sa?
Bài viết của tôi là câu trả lời phần mình. Còn bạn, bạn có tin vào điều ấy không?

Tuesday, April 9, 2019

Giá của ký ức




Trong những ngày này, trên các trang mạng đang lan truyền các bài thơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa được dùng trong sách giáo khoa, được cho là nằm trong tập Tiếng Việt và Toán lớp 2, tập 2, NXB Giáo dục, dùng cho học sinh toàn Việt Nam.
Nhưng đọc những vần thơ của ông Trần Đăng Khoa trên sách giáo khoa ấy, thật sửng sốt, và hơn nữa, "thơ" lại còn giúp mở ra những điều nghi hoặc về một vùng tối trong lịch sử cách mạng.

“Bệnh viện vừa truy điệu bác chiều nay
Nhưng bác chỉ yên nghỉ ban ngày
Chứ ban đêm là bác rời linh cửu
Bác chào chú lính gác
Rồi đi vòng quanh khắp trên thế giới
Để chăm sóc trẻ em
Nhất là đứa nào phải nằm trong bệnh viện” (trích)



Những câu văn tuyên truyền vặt và nhảm nhí như vậy được đưa vào sách giáo khoa, đem lại một cảm giác đau đớn cho các thế hệ sau của Việt Nam, những đứa trẻ bị tù đày trong cái gọi là "trí tuệ xã hội chủ nghĩa" như vậy. Thật đáng thương.

Đọc thơ, lại dấy lên một nghi vấn về một vụ lobby tinh thần chính trị, được dựng lên để mê mị người dân miền Bắc trong những ngày tháng bị dẫn dắt vào cuộc chiến tranh thống khổ. THậm chí, "thần đồng" có thể là một nghi án về văn chương, cần được thảo luận rộng rãi để làm rõ hơn.

Một nền giáo dục nát, và cả những con người nhân danh giá trị giáo dục, cũng nát – đang hiện rõ từ sách giáo khoa của con trẻ Việt Nam như vậy.

Ký ức có màu gì?
Nhưng có vẻ chạm vào thơ của Trần Đăng Khoa, là chạm vào ký ức của rất nhiều người miền Bắc đã từng sống ở đó trước tháng 4-1975. Cũng có một ít người công khai lên tiếng phản đối việc tôi bất bình với sách giáo khoa và giá trị "thần đồng" của ông được dùng trong sách, mà danh hiệu ấy vốn được chính quyền VNDCCH tuyên tặng rất trân trọng trong thời mở cuộc chiến vào miền Nam.

Ký ức của chúng ta luôn đẹp. Nhưng đôi lúc, ký ức chất chứa các giá trị được giảng rao vào lúc tri thức và thông tin khó khăn, khan hiếm, rồi cũng đến lúc chúng tự thú về các giá trị mang tính tạm dung - chuyên chở trong một giai đoạn.

Sự phản đối từ cách rất trí thức cũng như vô học của các ý kiến, cho thấy sự khác biệt văn hóa và tư duy rất lớn của 2 bên vĩ tuyến 17.

Miền Nam, nếu có ai đó đó đòi xét lại giá trị nghệ thuật của Nguyễn Du, điều đó sẽ mở ra những cuộc tranh cãi mang tính tri thức chứ không phải là việc giành giật cho những điều được ấn định trong tư duy, nhất định không thể thay đổi. Dù không có ý phân biệt vùng miền, hay kỳ thị, nhưng tôi nhận ra rằng không ít những anh chị bạn bè ở phía Bắc không dám thay đổi những giá trị trong ký ức mà họ đã được giáo dục, hay tệ hơn là những trường hợp từng bị gọi là nhồi sọ.

Người miền Nam có thể rất thích âm nhạc Trịnh Công Sơn nhưng đồng thời cũng có thể chỉ ra bất kỳ bài hát nào đó của ông để chê trách không tiếc lời. Thậm chí những quan điểm không đánh giá cao Truyện Kiều của Nguyễn Du hay Nhật Ký Trong Tù của Hồ Chí Minh đều được trao đổi, chia sẻ một cách hết sức bình thường.

Dĩ nhiên, đó là nói về công chúng và giới trí thức được thừa hưởng tinh thần dân chủ và tự do ngôn luận từ 2 nền Cộng hòa của chính quyền miền Nam VNCH. Còn về giới trí thức đã quen o ép trong khung tư duy của chế độ độc tài thì không cần phải bàn.

Riêng về trường hợp của thần đồng Trần Đăng Khoa, cũng có rất nhiều lời xì xầm và chuyện những bài thơ xuất sắc của ông đã nhận được sự chỉnh sửa của nhà thơ Xuân Diệu và Chế Lan Viên, vốn là những bậc thầy về ngôn ngữ mà mục đích để tạo dựng một điểm tựa văn hóa tinh thần, và rồi sau đó được sử dụng trong tuyên truyền chính trị rất nhiều.

Dĩ nhiên, lời đồn đãi thì không thể kiểm chứng, nhưng những sự khác biệt cơ bản giữa những bài thơ xuất sắc của ông và những bài thơ thường ngày sau đó khiến cho người ta phải suy nghĩ rất nhiều. Khoảng cách thật xa.

Đặc biệt những giá trị "thần đồng" đó đã không thể nối dài, vào lúc nhà thơ đã trở thành một người chín chắn hơn, nhiều tri thức hơn, và trải đời hơn.

Ký ức thật quan trọng, nhưng ký ức không thể chỉ là bức tranh treo tường đầy màu sắc, mà đôi khi cũng cần được nhìn lại nội dung đó, mảng màu đó mang ý nghĩa gì với đời mình.