Monday, May 31, 2021

Lây lất trong đại dịch


Trong ngày giãn cách đầu tiên ở Sài Gòn, và cũng lần đầu tiên, tôi chợt nghe được bà cụ gần nhà nói về đại dịch, theo cách nhìn của bà “Nếu chết thì tới luôn, chứ lây lất vầy mệt quá”.

Bà cụ đã vượt quá tuổi 60, tức số tuổi mà đợt giãn cách nhắc nhở là nếu không có việc gì thì đừng ra ngoài. Bà ngồi ở trước thềm nhà, mắt nhìn mông lung, không buồn, không vui, và nói vậy.

Sài Gòn, hay Việt Nam, đã có đủ kinh nghiệm về giãn cách từ năm 2020. Có thể nhìn chung, xã hội Việt Nam sốt sắng hợp tác toàn diện trước những mệnh lệnh từ chính phủ, từ các phương thức phòng chống, cho đến việc chịu nhốt mình trong nhà, đồng thuận với cả những barie kẽm gai đột nhiên xuất hiện chận ngay trước ngõ nhà mình. Những người ít ỏi cố vượt các quy định, thường bị mạng xã hội và báo chí lên án không khác gì tội phạm.

Và chắc vì vậy, bạn của bà cụ gần nhà, là một người bán xôi dạo, cũng đã gần 70 tuổi, cũng tuân theo quy định, không thấy xuất hiện với tiếng rao quen thuộc của mình. Đó là một phụ nữ gầy gò, nhỏ con và sống bằng những gói xôi nhỏ, gói lá chuối nguyên bản hằng ngày. Không biết bà cụ bán xôi ấy sẽ lây lất những ngày này ra sao?

Trên một trang facebook, tôi đọc thấy một phụ nữ mặc trang phục thể thao, diễn tập trong nhà và ghi chú vui vẻ rằng mọi người chẳng có gì cần phải lo lắng đâu. Cô ấy nói hãy tận dụng thời gian này để vui chơi, tập luyện và thư giãn chờ dịch đi qua. 

Nhưng người phụ nữ đó thật may mắn, vì có thể lạc quan với cuộc sống không quá khó khăn. Vì khi chúng ta cố hò hét trong bầu trời màu hồng đằng trước, phía sau, vẫn có hàng ngàn, hàng chục ngàn người đang quay quắt, tự sinh tự diệt trong lúc này. Trong cách nói của các quan chức nhà nước, thì vẫn luôn “no one left behind” như mọi quốc gia khác. Nhưng nếu không thử quay đầu nhìn lại và tỉnh táo nhận ra, làm sao biết ai đang đuối sức ở ngay sau mình?

Thống kê trên trang Trung tâm báo chí thành phố, viết rằng từ năm 2016 đến nay, có 67.000 hộ nghèo (chiếm 3,36% tổng số dân) và hơn 48.100 hộ cận nghèo, và quả quyết là đến nay đã cơ bản giải quyết xong. Bản tin tuyên bố là năm 2020 đã dứt điểm, chỉ còn 1% hộ nghèo. 

Thật bất hợp lý và ngớ ngẩn. Nghèo là một biến động không ngừng, và chỉ số biến động đó còn tùy thuộc vào rất nhiều thứ của cả quốc gia và thế giới. Không thể rượt đuổi một chuẩn mực cũ của 5 năm trước, rồi sau đó treo băng-rôn, bắn pháo hoa là đã hoàn thành chỉ tiêu diệt nghèo của hôm nay.

Cũng trong cuối năm 2020, Khái niệm về nghèo, chuẩn nghèo được sắp đặt lại. Theo Nghị định 07/2021/NĐ-CP quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025, thì nghèo được tính theo thu nhập khi làm tiền có 1,5 triệu đồng/người/tháng (với khu vực nông thôn), và 2 triệu đồng/người/tháng (khu vực thành thị).

Đây cũng là một cách tính lạc hậu kinh hoàng với thời thế. Ở những thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng… sống được với 4 triệu đồng/người/tháng đã là chuyện vật vã khó tin. Những người bán cóc ổi trước quán nhậu, những người bán vé số mỗi ngày bên đường vẫn thấy, và với cả cụ bà bán xôi mà tôi biết, có thu nhập gấp đôi số đó, tức 8 triệu đồng/tháng cũng không vùng vẫy nổi để thoát khỏi chữ nghèo.

Dù có nói gì đi nữa, đại dịch và giãn cách là cú tát nổ đom đóm mỗi ngày đối với người nghèo, với buổi sáng thức dậy, loay hoay nặn túi dè sẻn chi xài, nhìn tiền học của con cái mà điếng người, ám ảnh ngày đóng tiền nhà sắp đến... Câu chuyện một nam thanh niên chạy Grab nhảy cầu Bình Triệu (quận Bình Thạnh, Sài Gòn) vào cuối tháng 5 do dịch bệnh kéo dài, khó khăn chồng chất suốt hai năm nên tuyệt vọng, là một ví dụ rất rõ.

Từ đầu năm 2021 đến nay, các vùng, khu vực bị phong tỏa để tránh lây nhiễm xuất hiện liên tục ở nhiều nơi. Sài Gòn cũng rơi vào tình trạng như vậy. Dĩ nhiên, trong các vùng phong tỏa ấy, có người bệnh lẫn kẻ lành, nhưng ai cũng chấp nhận vì đó là chuyện chung của quốc gia. Do vậy, cũng đến lúc, chính quyền nên thiết thực và ráo riết xem sự khó khăn, cùng quẩn của người nghèo trong lúc này là bộ mặt và tư cách quốc gia, mà mình đang có trách nhiệm.

Thật khó nghĩ về chuyện đóng, khóa một khu vực mà phó mặc họ tự sinh tồn ra sao. Với kinh nghiệm của năm 2020 về chống dịch và dân khó, chính quyền tối thiểu nên nghĩ đến các loại tem phiếu thực phẩm ngày, nhu yếu phẩm tuần, dành cho những gia đình, hộ, công dân khó khăn đang hết lòng hợp tác với việc phong tỏa. 

Người dân có thể giúp nhau. Hàng xóm có thể chuyền gạo, bánh cho nhau, nhưng nếu trong tất cả những hành động đó không có gương mặt của chính quyền, thì dù có gọi là chống dịch thành công, cũng chẳng vẻ vang gì khi thiếu phần đạo đức nhà nước với công dân mình.

Không thể cái gì cũng đẩy vào xã hội hóa – dân tự lo nhau. Nếu chống dịch thành công và bộ mặt nhà nước rạng rỡ, nó cần là ánh sáng chung, có từ cả những gương mặt những người nghèo khó trên đất nước này.

Mới đây, trên mạng xã hội lan truyền biên lai tính tiền đợt cách ly của một người, gần 6 triệu rưỡi, khiến không ít người đọc và thót tim. Đây hoàn toàn là kiểu dịch vụ trọn gói, phối hợp giữa nhà nước và nhà thầu, không có sự hỗ trợ nào được nhìn thấy. Một người chạy xe Grab lớn tuổi vào buổi sáng cuối tháng 5, trên đường đi vắng hoe, cứ quay đầu hỏi đi hỏi lại “mình không có tiền, được trả góp không chú? Mà mình có bảo hiểm y tế có được tính vô không chú?”.

Những câu hỏi như vậy, vọng lên từ dân nghèo, chỉ chính phủ mới có thể trả lời.

Năm thứ hai của đại dịch Covid mở ra nhiều cái nhìn về cách ứng xử ở mỗi quốc gia, đối với công dân của mình. Bất luận đó là hình thức kiểm soát nghiêm ngặt nhất cho đến các biện pháp tự do miễn dịch cộng đồng, điều quan trọng nhất vẫn là những bài tính có gương mặt con người.

Tức, con người sẽ tồn tại, chịu đựng hay sống sót qua các cơn dịch như thế nào. Và thế giới sẽ quay lại đời sống bình thường của mình ra sao, vuốt mặt nhìn nhau, với phần nhân loại đã được loại trừ.

Nói đến đây, lại nhớ câu chuyện trước con hẻm nhà mình. Dì bán café cóc, sống mòn bằng từng ly café mang đi hiếm hoi, lây lất trong những ngày đại dịch năm 2020. Tiền bán cả ngày không đủ bữa chợ hôm sau, Dì thuộc hàng nghèo nhất xóm. Nghe tổ trưởng khu phố gọi làm đơn xin hỗ trợ từ quỹ 62.000 tỷ của nhà nước, Dì mừng hết lớn, điền ngay. Ấy vậy mà ít lâu sau, nghe đồn có người được lãnh tiền, Dì rón rén theo tổ trưởng, hỏi thăm, thì được trả lời rằng “có nguồn kinh doanh, tức là không có gì khó khăn, nên không được tiền hỗ trợ”.

Saturday, May 29, 2021

Phỏng vấn Ls Võ An Đôn: "Ls Hòa mất niềm tin vào nền tư pháp là điều có thật?"

Sự kiện luật sư Lê Văn Hòa, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội, từng là Vụ trưởng Ban Nội Chính TW tuyên bố 'hết niềm tin vào tư pháp', và tuyên bố bỏ nghề, đã gây xôn xao không ít trên những dòng tin không thuộc báo chí Nhà nước vào những ngày cuối tháng 5-2021.

Có thể nói, điểm tan vỡ trong niềm tin lớn nhất của ông Hòa, là khi ông tham gia vào nhóm luật sư bào chữa miễn phí cho người dân làng Đồng Tâm, trong vụ 3000 công an nửa đêm đột nhập tấn công làng, thảm sát cụ trưởng lão Lê Đình Kình. Những lần ra tòa, và thất vọng trước lý lẽ kết tội người dân, ông Hòa đã từ đó chuyển dần sang tâm trạng từ bỏ. Khép kín không trả lời thêm về sự kiện này, cho tới nay.

Ở vị trí một luật sư tâm huyết với việc bảo vệ công lý, luật sư Võ An Đôn (sinh năm 1977, sống tại Phú Yên) đã bị rút thẻ hành nghề, như một cách răn đe với giới luật sư muốn hành động chỉ dựa trên chuẩn mực hiến pháp và pháp luật.

Trao đổi với luật sư Võ An Đôn, một người bị tước thẻ hành nghề, về câu chuyện một luật sư tự bỏ thẻ hành nghề, ông tâm tình cho biết cảm giác của mình.


Chào luật sư Võ An Đôn, chắc anh cũng nghe qua chuyện luật sư Hòa vừa tuyên bố bỏ nghề, gây xôn xao trong dư luận?

Tôi đọc trên facebook, nghe qua về chuyện của luật sư Hòa từ bỏ nghề luật sư vì “mất niềm tin vào ngành tư pháp Việt Nam”, nhưng tiếc là trước đây tôi không có dịp tiếp xúc với anh ấy. Thật ra, với suy nghĩ riêng của tôi, việc từ bỏ của luật sư Hòa có thể gọi là hành động đúng đắn và sáng suốt.

Anh có thể nói rõ hơn, vì sao hành động tự bỏ thẻ hành nghề luật sư của ông Hòa lại là “sáng suốt”?

Nghề luật sư và những câu chuyện của nó thì không phải chỉ có anh Hòa, mà gần như ai cũng biết cả. Nhưng để nói thẳng ra và từ bỏ, thì đó chính là một bản lĩnh hiếm. Nói về chán, thì nhiều người chán lắm rồi anh à, nhưng là nghề nghiệp thì từ bỏ thì sống bằng gì, năm tháng tu học kể như bỏ.

Lâu nay, nhìn là thấy, luật sư ở Việt Nam xuất hiện nhiều trường hợp chỉ làm đẹp thôi chứ không còn tác dụng hay ý nghĩa gì. Ngoài việc im lặng xoay sở do hiểu nội tình hoặc chạy án thì thôi, chứ nếu là luật sư chân chính, dựa mọi thứ chỉ dựa vào luật thì hiếm khi nào thành công lắm. Anh có ra tòa nói hay cách mấy cũng không ai thèm nghe mình. Thỉnh thoảng có những thứ bày ra tuyệt đối không thể chối cãi thì mới gọi là thắng kiện thôi. Chỉ dựa là tinh thần công lý thôi thì không hiệu quả.

Nên mới nói, nhiều luật sư chạy án, đôi khi không phải vì tiền mà muốn cố đem lại lợi ích đúng cho thân chủ của mình.

Nghề luật sư vẫn còn nhiều người làm việc, vì đã bỏ bao nhiêu năm ra học hành, sống với nghề thì cố nhịn để làm nghề. Nhưng nếu đã va chạm với tòa án, tố tụng… và thấu hiểu, thì có một cuộc sống không khó khăn hoặc có nghề tay trái,  nhiều người dễ dàng từ bỏ vì quá mệt mỏi.

Ngay khi Luật sư Hòa tuyên bố từ bỏ, ông nhận được tâm thư kêu gọi nên thay đổi ý định. Một trong những lời khuyên ấy, là nên cố gắng chèo chống vì lẽ phải: Nếu người tốt bỏ đi, thì cái xấu, cái ác sẽ có thêm một vùng lợi thế…?

Tôi có đọc vài thư như vậy, và nghĩ rằng có thể không phải họ chỉ khuyên anh Hòa, mà mặt khác còn tự an ủi cho chính mình, nhận sự việc để đánh động xã hội. Một người bỏ cuộc, những người còn lại đang cố gắng với lý tưởng nghề luật sư sẽ cảm thấy cô đơn hơn.

Thật ra, giới luật sư cũng phản ứng nhiều, khi thấy nghề nghiệp và lòng tự trọng bị tổn thương. Từ năm 2015, nhiều sự phản ứng và ra tòa chống án gọi là bỏ túi đã diễn ra nhưng đều bị vùi dập. Chẳng hạn ở miền Trung thì có sự kiện của tôi (LTS: luật sư Võ An Đôn, bị rút thẻ hành nghề), rồi đến vụ Phạm Công Út ở Sài Gòn. Rồi Hà Nội thì có anh Trần Vũ Hải. Có thể người ta nói là luật sư này A, B có sai phạm gì đó, nhưng mượn cái cớ đó, vào thời điểm cần thiết, thì họ ra tay ngay. Vẫn có những luật sư phục tùng nhà nước, sai phạm được biết nhưng chưa cần thiết thì không bị đụng đến.

Những ví dụ đó, đủ để răn đe nên ai thấy đều thủ thế. Nên qua các lời khuyên như “nếu rời bỏ thì cái xấu, cái ác lại có lợi thế”… chỉ là người ta nói vậy thôi, chứ không thể làm gì, ít nhất là trong một thời gian dài nữa. Anh Hòa tuyên bố “mất niềm tin vào ngành tư pháp”, là một điều có thật mà giới luật sư ai cũng biết.

Tòa án Việt Năm từ năm 2019 đến nay đã diễn ra nhiều điều khó tin, như luật sư bị từ chối tranh tụng, điện cúp vào lúc thẩm phán bế tắc trả lời, người bào chữa bị khiêng ra khỏi tòa khi chất vấn sắc sảo…  Ai cũng thấy các câu chuyện đáng giận từ tòa án… Nhưng còn luật sư đoàn, một tổ chức nghề nghiệp như vậy sao không lên tiếng bảo vệ cho người của mình, dù là dựa trên lý lẽ luật pháp?

Ai cũng buồn, cũng tức giận nếu thấy tòa án không có công lý, không minh bạch. Nhưng cũng không ai dám mong các luật sư đoàn lên tiếng để hỗ trợ. Đứng đầu các luật sư đoàn, bắt buộc phải là đảng viên. Mà nếu vậy thì anh có chức, có đảng, bắt buộc phải nghe theo chỉ đạo chứ không thể vì một cá nhân hay sự kiện nào được, dù đó là điều cần thiết. Đặc biệt là những luật sư không đảng viên thì có lên tiếng ở luật sư đoàn, giống như góp ý thôi, không ai nghe cả.

Giờ đây là một người tự do, nhưng hiểu biết luật, anh có còn ức chế hay tức giận khi đối diện với những bất công, nhưng bị buộc phải im lặng nhiều điều để giữ nghề như trước đây?

Lúc còn là luật sư, tôi đã nói về chuyện tòa án, về tiêu cực, bất công trong các phiên tòa… và cũng dự đoán được điều gì sẽ đến cho tôi và những người khác về sau. Do đó, khi nghe tin về trường hợp “mất niềm tin vào nền tư pháp Việt Nam” của luật sư Lê Văn Hòa, tôi cũng không quá bất ngờ. Việc từ bỏ của anh Hòa gây xúc động cho đồng nghiệp và những người mang chung tâm trạng, nhưng dù có tuyên bố như tố cáo đi nữa, cũng không ăn thua gì với hiện trạng tư pháp lúc này.

Tôi nói không ăn thua, là bởi mọi vụ án đều đi qua lăng kính chính trị chỉ đạo. Trước tuyên án thường bao giờ cũng họp để nghe chỉ đạo về kết quả vụ án. Nên khi luật sư có nói thể nào, viện kiểm sát từ chối tranh luận, thẩm phán bỏ chút thì giờ như lắng nghe rồi phán thôi. Không có ý nghĩa thực tế gì. Chỉ có thể thay đổi, cải cách thật sự toàn diện mới hy vọng mọi thứ tốt hơn.

Tôi bước ra xa về với đời sống ruộng vườn nhưng cũng quan sát về các vụ án. Nhưng tâm trạng khác trước đây. Khi còn giấy hành nghề luật sư, tôi luôn nóng lòng muốn tham gia vào những vụ án oan sai hiện rõ và góp phần đòi công lý. Nhưng giờ là khán giả, tôi lại thấy nỗ lực không ngừng của các luật sư hôm nay cũng chẳng khác gì tôi trước đây. Chỉ nghĩ rằng thương cho dân Việt Nam mình, chỉ còn thấy rất buồn vậy thôi anh.

Do máu nghề nghiệp cứ thúc đẩy, thì khi không là luật sư chính thức, tôi vẫn nhận tư vấn các vụ án, viết đơn hoặc nhận ủy quyền ra tòa (luật vẫn cho phép), thế nhưng tuyên truyền của chính quyền vẫn bao vây và ngăn chận người dân đến với tôi, dọa rằng tôi là “phản động”, dính đến tôi thì kiện tụng nhất định sẽ thất bại… nên thỉnh thoảng, những người dân nào đã oan ức tận cùng, nhưng vụ đòi công lý đã cùng đường rồi mới dám tìm đến gặp tôi, bởi họ không còn biết sợ là gì nữa. Thậm chí có những vụ án kiện tụng bình thường, phía bên tòa án khi biết tôi là người tư vấn hay giúp đỡ gì thì cũng nói riêng với người đứng tên đơn là nên đổi người mới hy vọng có kết quả.

Và hôm nay, anh đang vẫn sống như một nông dân, và dành thời gian để tư vấn, điền đơn… giúp cho những ai đang gặp khó khăn và cần đến một tiếng nói về luật pháp…?

Tôi vẫn sống với cuộc đời làm nông của mình, và thỉnh thoảng vẫn dùng khả năng học luật của mình để giúp đỡ miễn phí cho những ai cần đến. Tôi vẫn sống như mình đã từng sống từ đó đến giờ, không có gì thay đổi. Hôm qua tôi đã nói như thế nào, hôm nay tôi vẫn sống và nói như vậy.

Vâng, cám ơn luật sư Võ An Đôn.

Sunday, May 23, 2021

Sự rẻ tiền và vô trách nhiệm của báo chí, từ chuyện "Hoài Linh ôm 14 tỷ"


Đi kèm với những câu chuyện quốc dân, ăn khách hơn cả những gameshow của hệ thống truyền hình nhà nước, trong vài ngày nay, chuyện nghệ sĩ Hoài Linh giữ 14 tỷ tiền từ thiện trong năm 2020, đang bị coi là có vấn đề mờ ám đang dậy lên khắp nơi.

Một trong những tờ báo lớn của Việt Nam, tờ Thanh Niên, đúng vào ngày 23-5 đăng một bài viết về sự kiện này, với một cái tiêu đề nửa kín nửa hở, câu khách rất rẻ tiền rằng "Dân mạng xôn xao 'chứng nhận' chuyển khoản từ thiện 14 tỉ mang tên Hoài Linh" - dĩ nhiên, người ta nhìn thấy cặp nhà báo Thạch Anh và Lạc Xuân cho vào ngoặc kép hai chữ chứng nhận, một cách đầy ngụ ý: hoặc rẻ tiền câu view, hoặc tạo nghi hoặc về Hoài Linh.
Đọc hết bài báo, giá trị thông tin của nó còn tệ hơn cả một status tầm thường trên facebook, cho thấy rõ kiểu hóng hớt chạy theo đít mạng xã hội để kiếm view đang ăn sâu vào não trạng của báo chí, hủy hoại tư chất của giá trị tin tức, lẫn một tên tuổi như báo Thanh Niên.
Người dân trên mạng xã hội có thể nghi hoặc và không tiếp cận được Hoài Linh để hỏi thêm về giấy xác nhận chuyển ngân 14 tỷ, nhưng với nghiệp vụ nhà báo thì chắc chắn phải được.
Không cần đến mức công an giúp để điều tra mã số giao dịch lên đến 14 tỷ đó có thật hay không từ hệ thống ngân hàng, mà chuyện đến tận nhà, gặp tận mặt Hoài Linh để phỏng vấn mạch lạc cho độc giả được biết, hoàn toàn không có khó khăn gì cả.
Hoài Linh nếu gian dối, hay minh bạch, qua một cuộc phỏng vấn chắc chắc sẽ tốt hơn trong nghề làm báo căn bản, đạo đức báo chí căn bản, khác hẳn kiểu quăng tin câu view rẻ tiền, lửng lơ như vậy vào một ngày chủ nhật.
Đây là một trong những điểm quan trọng của nghề báo thời social media bùng nổ: nghề báo phải tử tế và tận lực để đi đến gốc cội của sự việc, chứ không thể ăn theo đen đúa như vậy.
Chưa biết là Hoài Linh đúng hay sai, nhưng việc tổng hợp những tin và cách diễn giải khởi đầu đầy môt tả tiêu cực, góp thêm một bàn tay chụp mũ là điều hạ tiện. Nếu Hoài Linh ôm số 14 tỷ đồng từ thiện đó bất minh, đó là tội hình sự, và sẽ được xét xử. Nhưng trước khi ra tòa, mọi thứ tòa án dư luận được tiếp tay bởi báo chí nhà nước chính thức, là vô cùng thối nát.
Lâu nay, báo chí Việt Nam nói chung, xuất hiện nhiều kiểu cách như vậy. Mượn người, mượn chuyện để bán báo, nhưng khi bị vạch mặt thì dựa lưng vào quyền lực truyền thông sẵn có để bôi nhọ, khủng bố tinh thần, còn tệ hơn là đẩy người đối diện vào các tư thế chính trị, hình sự để đàn áp.
Sự kiện của anh Dưa Leo, một comedian trực tuyến cũng là một ví dụ. Để kiếm người đọc, báo Nhân Dân cũng chơi trò chụp mũ, gọi anh ta là phản động, dạy dỗ và tấn công cá nhân vô lý, nhưng đến khi nhận đơn kiện đường đường chính chính theo luật pháp thì cả bộ máy lẫn người viết bài đều tìm chỗ né tránh. Thậm chí có những dấu hiệu cho thấy phần tổ chức các nhóm dư luận viên, hội cờ đỏ... mạ lỵ anh Dưa Leo sau đó, để dùng làm bài trả lời không chính thức trên Nhân Dân, là có dấu hiệu liên kết.
Ngồi trong một quán nước ven đường sáng nay, nghe một người khách đọc những tin tức như vậy, gào chửi Hoài Linh và "bọn nghệ sĩ" cho những người khác nghe, gọi chung quanh hưởng ứng, thật sự, tôi rùng mình vì thấy mình là nhân chứng tức thì của sự suy đồi báo chí đến tận cùng.
Có người nói với tôi rằng hôm nay, ngày 23-5 là ngày bầu cử, cũng có thể báo chí cần một số thứ thật rẻ tiền để thu hút dân chúng, phòng trường hợp bọn "chống đối" tung ra tin, bài chống phá.
Nhưng ngay cả như vậy, nếu có, báo chí cũng tự nguyện vào vai hạ cấp, và bán rẻ những nghệ sĩ hay những người, mà họ từng hối hả chạy theo viết bài ca ngợi để bán báo. Trong trường hợp giả định này, dù có giải thích thầm lén về một nhiệm vụ kép cao cả nào đó, mọi biện minh đều là sự xúc phạm đến đời sống đang mệt nhoài gầy dựng bình an của xã hội Việt Nam, lại bị cố tình vấy bẩn.

Saturday, May 15, 2021

Tác giả bức Thương Tiếc ở tuổi 90, xế chiều hiu hắt

Trên các trang mạng, những người yêu mến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, yêu mến một kỷ niệm đẹp của VNCH đều nhắc nhau nên sớm ghé thăm ông. Người đã tạo bức tượng Thương Tiếc vang bóng một thời của nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nay đã 90 tuổi, nhớ nhớ, quên quên và như cũng đã quá mệt mỏi với một cõi tạm đầy những nhọc nhằn với ông.

Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, ở tuổi 90

Sinh năm 1934 tại Gò Vấp, Sài Gòn, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định và sau đó qua động viên, tham gia ngành quân nhu, rồi trở thành Đại Úy, phục vụ Tại Cục Chiến Tranh Chính Trị. Trong cuộc đời mình, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã tạo ra vô số tác phẩm, nhưng đắc ý và được nhiều người biết đến nhất, là tượng Thương tiếc, đặt tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa, và bức thứ hai là tượng An Dương Vương, đặt ở Ngã Sáu Chợ lớn. Cả hai đều khánh thành vào năm 1966.

Lúc này thì ít ai nhận ra điêu khắc gia lừng danh của miền Nam tự do cũ, do ông ít bạn bè, trí nhớ không còn sắc bén và một phần khác, quá trình đi tù sau 1975, bị đánh đập nên ông bị hư hại thính giác. Gặp ông lúc này ở nhà riêng tại Nguyễn Thượng Hiền, Gò Vấp, nói gần như hét vào tai thì ông mới hiểu hết ý của người đối thoại.

Những người thân, quen biết nói ông vẫn còn bị PTSD với những năm tháng tù đày,  tức Dư chấn tâm thần, dẫn đến trạng thái bất thường, hoảng sợ từ một biến cố hay giai đoạn có sức ám ảnh, nên nếu chạm vào người ông bất ngờ, hoặc nâng dìu mà không báo trước, đều làm ông giật mình, hay hoảng hốt.

Hiện điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu sống cùng sự chăm sóc của các con. Nơi cư ngụ của ông, số 176 Nguyễn Thượng Hiền, phường 1, Gò Vấp, là quán cà phê Tượng Đá, nơi có đặt nhiều tượng mà ông sáng tác lâu nay. Căn phòng nhỏ của ông nằm nép sau quán cà phê, là nơi trú ẩn hết sức cô đơn của ông cùng kỷ niệm. Người quen cũng thấy ông lặng lẽ làm lại mẫu tượng Thương tiếc thu nhỏ, đặt trong phòng, chỉ chia sẻ với ai quen biết. Đây cũng là một trong những điều gây đau đớn tinh thần của ông: Sau 1975, chính quyền mới cho người lập tức đến Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa kéo đổ bức Thương Tiếc, sau đó đập nát để thỏa lòng căm thù. Nhưng vẫn chưa đủ, ít lâu sau đó, theo chỉ điểm của giới nằm vùng, một nhóm bộ đội và băng đỏ cầm AK-47 đến tận nhà ông, đem mẫu tượng ban đầu (khuôn gốc) đập và chửi bới, đánh đập cả ông.

Vì tượng đài An Dương Vương ở Ngã sáu Chợ Lớn là tượng một danh nhân của lịch sử Việt nên dù có ghét bỏ tác phẩm của Nguyễn Thanh Thu, chính quyền mới cũng khó lòng thẳng tay hủy hoại. Họ chỉ để nguyên vậy, không tu sửa sau nhiều chục năm với ý đồ rất rõ là đợi có hư hại, là lập tức cho phá, mang đi. Đó cũng là trường hợp của tượng đài Trần Nguyên Hãn trước chợ Bến Thành.

Và vì sau phải vậy? Bởi tượng Trần Nguyên Hãn được coi là thánh tổ của truyền tin quân lực VNCH, còn tượng An Dương Vương là biểu tượng của công binh VNCH.

Nhưng điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu không chỉ là người làm tượng. Được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu đi Phi Luật Tân để tham khảo một nghĩa trang chiến binh mà người Phi rất tự hào, ông Thu quay về và đưa ra đề án xây Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, để thay thế cho nghĩa trang ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, vào đầu những năm 60, thế kỷ 20, đã bắt đầu chật chội.

Điều lạ thường của chuyện bức tượng Thương tiếc, là khi đã có đủ 7 bản ký họa mẫu, phác thảo dự trù cho bức tượng tiêu biểu trước nghĩa trang, hình ảnh của anh hạ sĩ lính nhảy dù Võ Văn Hai ngồi nói chuyện hư không với một người bạn tử trận của mình trong một quán nước, vô tình đập vào mắt của ông Thu, khiến ông ngẫu hứng ghi lại, day dứt với nó..

Khi trình các đề án lên tổng thống Thiệu, ông Thu đã xin lỗi khi bày ra tờ giấy lót trong gói thuốc lá, có vẽ chì vội sơ sài, và nói rằng xin lỗi vì mình vừa mới làm. Ông kể lại là lúc đó, tổng thống Thiệu hỏi ông “Bản nào anh đắc ý nhất?”, ông Thu nói mình bị ám ảnh về hình ảnh ông phác họa từ hạ sĩ Võ Văn Hai. Sau đó ông và tổng thống Thiệu đã cùng chọn cái tên Thương tiếc cho bức tượng này.

Để hoàn thành toàn bộ bản vẽ chính xác cho Thương tiếc, hạ sĩ nhảy dù Võ Văn Hai đã ngồi làm mẫu cho ông Nguyễn Thanh Thu chỉnh đi, sửa lại từng nét một suốt ba tháng. Khởi đầu năm 1966, tượng được thực hiện bằng bê-tông, cốt sắt, đến năm 1969, được thay đổi bằng đồng. Tượng cao 4m, nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao của tượng đài là 8m. Tác phẩm này, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu nhận giải đặc biệt của Tổng tư lệnh tối cao Quân đội VNCH vào tháng 8, năm 1968.

Sau năm 1975, ông Thu trở thành nơi trút hận thù của các cán bộ trại tù cải tạo. Chỉ là người sáng tạo điêu khắc nhưng ông phải trải qua 8 năm tù ở trại Hàm Tân. Ông Thu kể rằng trong đó, ông có 22 tháng nhốt biệt giam và đánh đập tàn nhẫn ngày này qua tháng nọ. Khi ông lên tiếng hỏi vì sao ông bị tra tấn dã man như vậy, thì cán bộ vừa đánh vừa nói “Tội của anh là lưu lại cái tư tưởng, cái hình ảnh, cái tinh thần đó mới là quan trọng. Anh đừng nghĩ đến chuyện trở về nhé”. Những ngày tháng bỏ đói với vô số những trận đòn thù đã làm cho tai ông điếc và cơ thể chỉ là da bọc xương. Cũng có lúc ông đã bị mang ra trường bắn lúc 4 giờ sáng, bịt mắt lại, nhưng không hiểu sao lại có thay đổi vào giờ cuối, cho mang về nhốt lại. Đến ngày ông được thả về, người nhà mô tả là ông phải có người vác đi, vì không tự đi nổi.

Trước đó, khi cán bộ yêu cầu ông viết đơn xin khoan hồng và đổ tội hết cho chế độ cũ chứ ông không tự mình tạo ra những tác phẩm điêu khắc của quân đội. Ông Thu kể rằng lúc đó ông đã đuối sức lắm, chỉ còn thều thào nói được là “Tôi tạo ra, tượng chết thì tôi chết theo”. Một viên cán bộ tức giận nhào tới tát vào hai bên tai của ông. Những cú tát chí mạng khiến máu mũi và máu tai ứa ra, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu điếc gần như toàn phần từ đó.

Ông Nguyễn Thanh Thu có tham gia chương trình đi H.O của sĩ quan bị cải tạo. Ông ở Mỹ gần 10 năm, nhưng loay hoay vì nhớ nghề điêu khắc mà không thể nào nối lại được, sức khỏe thì suy sụp mà quá cô đơn với tâm hồn nghệ thuật của mình, nên sau đó ông xin về lại Việt Nam, sông với con, lặng lẽ tạo ra những bức tượng riêng của mình, ôm giấc mộng đời đến cuối cùng.

Giấc mơ lớn nhất mà điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu vẫn giữ, là có ngày phục dựng được bức Thương tiếc. Nhưng giờ ở cái tuổi 90, mệt nhoài với những chặng đường đã qua, ngày càng đau yếu, có lẽ rồi ông cũng sẽ ra đi lặng lẽ với những nỗi niềm rất thiêng liêng, đã có trong đời mình.

Còn chút nhớ về, xin hãy thử đến gặp ông, ở những giờ phút này, tại Gò Vấp, Sài Gòn.